Công hiệu khác nhau
Cồ túc xác và ngũ bội tử đều là vị
thuốc liễm phế, chỉ khái sáp tràng chỉ tả. Cồ túc xác chua, sáp, tính bình, liễm
phế, chỉ khái, liễm tràng chỉ tả tác dụng rất mạnh chỉ thống thì tác dụng cũng
tốt. Ngũ bội tử sáp, tính hàn liễm phế sáp tràng công lực tuy không bằng cồ túc
xác, nhưng hay giảng hỏa, giải độc, sinh tân dịch, chỉ huyết, cố tinh chi hãm
thì cồ túc xác lại không so sánh được.
Chủ trị khác nhau
1 – Cồ túc xác trị các chứng ho lâu ngày, tả
lâu ngày, lỵ lâu ngày
Ngũ bội tử trị di tinh, di niệu
Cồ túc xác liễm phế, chỉ khái, liễm
tràng, chỉ tả lực rất mạnh - Nên dùng chữa các bệnh. ho lâu, tả lỵ lâu ngày.
Như "nghi minh phương luận"
tiểu bách lao tán (cồ túc xác không kể nhiều ít tán nát, mỗi lần dùng 2 đồng
cho ô mai vào cùng sắc – nước một bát, uống nóng. Sau khi ăn ra mồ hôi, gia
thêm tiểu mạch 30 hạt cùng sắc lên đế uống. Trị chứng lao suyễn không khỏi, trị
ra mồ hôi.
"Hữu hiệu tụ phương bổ yếu"
Cố tràng thang (cồ túc xác, cam thảo, bào khương. kha tử nhục, trần bì, trần mễ).
Trị các chứng xích bạch lỵ đến bệnh tiết tả không cầm được.
"Thế y đắc hiệu phương” cố tràng hoàn ( ngô thù du, hoàng liên, cồ
túc xác) tri hoạt tiết đêm đi nhiều lần. Ngũ bội tử không những liễm phế, chỉ
khái, sáp tràng chỉ tả. chi lỵ mà còn có tính xúc tuyền – trị thận hư bất cổ,
thất tinh, di niệu.
Như "cục phương” ngọc tỏa đan
(ngũ bội tử. bach linh bì, long cốt, tang phiêu tiêu, ngũ vi tử)
2 - Cồ túc xác chữa các chứng đau
Ngũ bội tử chủ băng, lậu, tiện huyết,
mồ hôi trộm tiêu khát.
Cồ túc xác sức chr thống rất mạnh.
Dùng chữa các chứng tâm, phúc cân cốt đau, dùng một mình hay phối với các vị
khác cũng được.
Ngũ bội tử thu liễm chỉ huyết, giáng
hỏa, sinh tân liễm hãn, dùng chữa băng lậu hạ huyết, chỉ khát ra nhiều mồ hôi.
Như “Y học trung thâm tây lục"
cố Xung thang trị phụ nhân huyết băng, nên dùng ngũ bội tử, ô tậc cốt, tây thảo,
hoàng kỳ, sơn thù nhục, luyện long mẫu.
"Chu thị tập nghiệm phương"
trị đàn bà có mang sẩy thai (lậu thai) dùng ngũ bội tử tán mạt hòa nước, dùng
thìa uống thuốc, ngày uống hai lần.
"Bản thảo cương mục'’ trị chứng
tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm. Dùng ngũ bội tử tán nhỏ, điều với tân dịch, dán vào
rốn dùng vải buộc chặt lại.
3 - Cồ túc xác chủ trị đới hạ
Ngũ bội tử chủ trị thũng độc
Cồ túc xác thu sáp tác dụng rất mạnh,
dùng chữa hư hàn đới hạ. Như chữa chứng bạch đới không dứt, dùng cồ túc xác phỗi
hợp với vũ dư lương, long cốt, ô tặc cốt, bạch cương tằm, sinh thạch chi.
Ngũ bội tử không những dùng chữa đới
hạ, giáng hỏa giải độc, lại còn dùng chữa thũng độc.
Như
"thánh tễ tổng lục" ngũ bội tử tán (ngủ bội tử, đại hoàng,
hoàng bá) trộn đều tán nhỏ, lấy nước nhào thầnh hồ, ngày 3 lần đến 3, 5 lần, đổ
vào chỗ đau.
"Bác tễ phương" thần hiệu
khu phong tán (ngủ bội tử, mạn kinh tử) đun nước rửa, trị phong độc thượng công
làm cho mắt sưng, ngứa, rát, đau không chịu được hoặc mi mắt trên dưới đỏ loét,
mộng thịt ứ tràn kín cả con ngươi
Đặc thù sử dụng khác nhau
Thánh huệ phương trị đổ máu cam
không dứt, đã dùng nhiều thuốc không khỏi. Cồ túc xác đốt tồn tính, nghiền nhỏ
dùng cháo uống 2 đồng.
Lâm sàng báo: trị chứng lông quặm
mắt (lông mi đảo ngược quăn lại). Dùng ngữ vị tử một lạng nghiền thật nhỏ cho
ít mật ong, hoặc dấm, quấy đều như hồ. Trước hết hãy rửa sạch mất, má, và bì
phu xung quanh - sau lấy thuớc đổ vào cách da mắt khoảng 2 phân, mỗi ngày một lần.
Đa chữa trị 3 đến 10 lần lông mi đứng thẳng lên không đảo ngược nữa.