Công
hiệu khác nhau
Phục linh và chư
linh đều là vị thuốc thẩm tháp, lợi thủy, nhưng bạch phục linh thiên vào khí phận,
thấm khắp ở tỳ, hóa đờm, kiêm kiện tỷ bổ trung công dụng minh tâm an thần.
Chư linh thiên vào
huyết phận. So sánh với phục linh thì chư linh lương không có tác dụng bổ. Về lợi
thủy so với phục linh thì mạnh hơn, cho nên có công dụng lợi hạ tiêu thấp nhiệt.
Chủ trị khác nhau
1.
Phục
linh trị thủy thũng
Chư linh trị thấp nhiệt, tiểu
tiện không thông.
Phục linh là vị thuốc
chủ yếu chữa thủy thũng.
Như "Kim qũy yếu
lược" bài "phục linh nhung diêm thang” có phục linh, bạch truật,
nhung diêm, những bệch thủy khí tiểu tiện không lợi. Bài "Tam nhân
phương" cò bài phục linh tô tử hoàn (gồm có phục linh, tô tử, hạnh nhân trần
bì, phòng kỷ, sao đình lịch tử) để chữa bệnh phù mặt, tiểu tiện đái dắt, tâm
phúc trướng mãn.
"Y tông kim
giám" bài phục linh đại thủy thang gồm phục linh, binh lang, chư
linh, sa nhân, mộc lương, tràn bỉ, trạch tả, bạch truật, mộc qua, đại phúc bì,
tang bạch bì, tô ngạnh, gia sinh khương – để chữa phụ nữ có mang thủy thũng bụng
trướng đầy; hoặc xuyễn khó nằm. Dùng phục linh trị thủy thũng. Cùng với chư
linh thường dùng phối hợp.
Bởi vì chư linh có
tác dụng thanh lợi hạ tiêu thấp nhiệt nhân thế chư linh còn có khả năng trị thấp
nhiệt sinh ra đái giắt. Như "Thương hàn luận" bài chư linh thang gồm
chư linh, phục linh, trạch tả, hoạt thạch, a giao trị âm hư cơ nhiệt, tiểu tiện
không lợi khát muốnn uống nước. "Tiểu phẩm phương” dùng chư linh tán mạt
cùng chi tử làm co thai đái ít tiểu dắt mà đen.
2.
Phuc linh chủ trị đờm và khái nghịch, hỏa đờm, cho nên chữa
được bệnh ho có đờm nhiều sặc sụa. Phục linh ngọt chữa đờm, thẩm thấp, bổ
trung, hóa đờm.
Như "Thương
hàn luận” bài phục linh quế chi, bạch truật, cam thảo thang, trị tâm hạ có đờm,
bụng và cạnh sườn đau, mắt hoa.
'Kim qũy yếu lược"
nói: xung khỉ đờm phải hạ nhưng mà lại ho, bụng đầy. Dùng bài quế linh ngũ vị
cam thảo thang, bỏ quế gia can khương, tế tân để chữa ho và đầy.
Chư linh chủ tri tả
hạ tiêu thấp nhiệt, cho nên dùng chữa hạ tiêu thấp nhiệt sinh ra bệnh mộng
tinh, di tinh, bạch trọc. Như "phố tế bản sự phương” có bài chư linh hoàn
gồm bán hạ, chư linh - lúc đói uống lấy nước muối làm thang để chữa bệnh mộng
tinh, di tinh.
“Tế sinh
phương" bài chư linh hoàn chữa chứng niên tráng ích khí (tuổi trẻ mà chân
khí thịnh”, mộng tinh, bạch trọc.
3. Phục
linh chủ trị tim đập mạnh, sợ hãi, hay quên
Chư linh chữa thấp nhiệt, cước khí.
Phục linh, kiện tỳ,
bổ trung, minh tám, an thần, dudng chữa các chứng tim đập mạnh, hay sợ hãi, hay
quên.
Như "Bất cú tạp"
bài phục linh ẩm tử gồm trần bì, hán hạ, phục linh, mạch mỏng động, phục thần,
trầm hương, cam thảo, gia sinh khương trị bệnh đàm mê tâm khiếu (đờm lấp khiếu
tim) gây nên mê hoảng sợ không thôi. "Bị cấp thiên kim yếu phương" có
bài phục linh thang, gồm phục linh, cam thảo, thược dược, quế tâm, đương quy,
sinh khuơng, mạch môn đông, đại táo chữa bệnh đàn bà sau khi đẻ khổ sở qúa, tâm
thần bát định, hoảng sợ, sợ hãi, ăn nói hoang đường, sai lầm, hoảng hốt, trong
lòng lơ mơ không biết gì.
Chư linh hay lợi hạ
tiêu thấp nhiệt, nên dùng chữa bệnh cước khí. Như "Thánh huệ phương"
cơ bài chư linh tán gồm chư linh, xích phục linh, tri mẫu, binh lang, sài hồ,
ngô thù du, cam thảo, mộc hương hoàng cầm,
tê giác, để chữa bệnh chướng được cước khí mới phát, trong lòng ủng trệ, phiền
muộn, chân tay buồn, nóng, đầu gối sưng đau, không muốn ăn uống.
Đặc
thù chữa khác nhau
"Đức sinh đường
kinh nghiệm phương" trị hạ hư tiêu khát, hạ thinh, hạ hư, tâm hỏa viêm,
nóng như đốt chẩy ra, thận thủy khô, tâm và thận không giao tế với nhau nên
sinh ra khát. Dùng bạch phục linh, hoàng liên hai vị bằng nhau, tán mạt, dùng
thiên hoa phấn làm hồ, nên bằng hột ngô to, mỗi lần uống với nước 50 viên.
"Bản
thảo cương mục" bài Dân tôn chân nhân, chữa trên mặt có vết đen. Dùng mật
ong hòa phục linh bôi vào, 7 ngày thì khỏi. "Ngoại đài bí yếu” trị tiểu
như bí kết. Dùng chư linh 1 lạng, lấy một ít nước, đun với cứt gà trắng để đieu
trị, để trẻ đứng mà thông.