Công hiệu khác
nhau
Quất bì cùng quất hồng ở một thứ quả mà ra.
Công hiệu giống nhau, đều có công dụng lý khí, táo thấp, hóa đàm. Nhưng quất bì
còn giữ lại phần trắng bên trong vị cay, đắng mà ôn, thiên vào tỳ, phế kinh,
tính hòa hoãn, lý khí mà trong đó có bổ ích, hay lý tỳ, hòa trung, kiện vị, lợi
thủy, trong điều trị về tỳ phế kinh.
Quất bì bỏ ruột trắng thành quất hồng, vị
cay, đắng mà tính ôn, thiên về các kinh thủ túc thái âm, dương minh, thái
dương, tính ôn táo, lý khí, táo thấp, khử đàm thì hay hơn, lại còn dùng phát biểu,
tán hàn mà tính ít bổ.
Chủ trị khác nhau
1
- Quất bì chủ trị quản phúc trướng
thống.Quất hồng chủ trị đàm ẩm tâm thống, chóng mặt, nhức đầu, tim đập mạnh.
Quất bì lý khí, táo thấp, kiện tỳ, hòa vị.
Dùng chữa các chứng: tỳ vị khí trệ, cuống dạ dày đau, bụng trướng đau, nuốt
chua, ái khí, nôn ọe như "mạch nhân chứng trị" - bài Thương phác nhị
trần thang (thương truật, hậu phác, bán hạ, phục linh, trần bì, cam thảo) sắc
nước uống. Trị tỳ vị bất hòa, thực trệ, ách nghịch, ẩu thổ, đầy, muộn.
"Cục phương" bình vị tán (thương
truật, hậu phác, trần bì, trích cam thảo) trị tỳ vị bất hòa, không thiết gì ăn
uống, tim, bụng, sườn, gân đau nhức, sưng trướng như dùi đâm, ái khí, nuốt
chua.
Quất hồng nhuận táo, sở trường táo thấp hóa
đàm. Thường dùng chữa đàm ẩm gây ra đau tim, váng vất chóng mặt, tim đập nhanh.
Như "Đam dã ông thức nghiệm phương” trị
đường, trong tim bị đau, phải dùng quất bì sắc thang uống rất hay.
“Cục phương” nhị trần thang (bán hạ, quất hồng,
bạch phục linh, cam thảo), trị chứng đàm ẩm, đầu váng, tim dập mạnh, trong vị
quản không khoan khoái.
2 -
Quất bì trị khái thấu, đàm suyễn.
Quất hồng chủ trị phong hàn ngoại cảm, khái
thấu.
Quất bì cay, tán, đắng giáng, lý khí hóa đàm,
dùng chữa thấptrở tắc, tỳ vị khí trệ, sinh ho suyễn. Như “Vệ sinh bảo giám” Định
suyễn binh tử (khoản hoa, tang bạch bì, sao ngô thù đu, mã dâu linh, trần bì,
hàn thực diên, bạch khiên ngưu tử) trị ho, bụng đầy.
"Chứng nhân mạch trị". Nhị mẫu, nhị
trần thang (tri mẫu, bối mẫu, bán hạ, bạch phục linh, trần bì, cam thảo) sắc
thang uống, trị táo khái phát nhiệt, phiền khát đòi uống nhỉẽu, ho, suyễn, thở
ngắn hơi - lúc thở, lúc không.
Quất hồng bì không những dùng chữa thấp, suyễn,
ho, cay, ôn lại táo, phát biểu, tán hàn; cũng dùng chữa các chứng ngoại cảm
phong hàn ho, suyễn, thường dùng với tử tô, sinh khương, tế tân, ngũ vị tử.
3 - Quất
bì trị thủy khí
Quất hồng trị chứng nôn ra nước.
Quất bì cay khí ôn hòa, kiêm đắng giáng tiết,
hóa đàm dưỡng phế, lý khí kiện tỳ, sơ can, tán tinh, là vị thuốc rất tốt để lợi
thủy (giai phẩm) như "Trung tàng kinh” bài Ngũ bì ẩm (tang bạch bì, trần
bì, sinh khương bì, đại phúc bì, phục linh bì) trị tỳ uất, thủy thũng, bốn chân
tay, mặt, mắt đều phù thũng, vị quản trướng mãn, khí bốc lên suyễn cấp, tiểu tiện
không lợi, đến cả bệnh có mang thủy thũng.
“Nghi minh luận” - bài Đại quất bì thang (trần
bì, mộc hương, hoạt thạch, binh lang, phục linh, mộc chư linh, trạch tả, bạch
truật, quan ga, cam thảo) trị chứng
bên trong ôn nhiệt thậm tệ, tâm phúc mãn trướng, thủy thũng, tiểu tiện không lợi,
đại tiện hoạt tiết.
Quất hồng chữa táo thấp, hóa ẩm. Dùng chữa
các chứng: trong dạ dày đàm ẩm đình trệ, sinh ra lộn xộn nôn ra nước.
Như “Thánh chứng kỳ phương” trị bệnh lộn xộn
nôn ra nước, dùng quất hồng tán mạt, đêm để năm phân vào lòng bàn tay liếm thuốc
thì ngủ yên.
Đặc thù chủ trị
khác nhau
“Bạch dược hiệu dùng kỳ quan”. Trần bì cay
khai ôn hóa kiêm khổ giáng tiết, hóa đàm dưỡng phế, lý khí tiện tỳ, sơ can tán
tinh, mà là một vị thuốc rất dễ lợi thủy.
Như “Cảnh nhạc toàn thư” bài lục an tiễn, trị
đàm trệ khí, tiện bế; dùng trần bì, bán hạ, phục linh, cam thảo, hạnh nhân, bạch
giới tử, thêm sinh khương sắc thang uống.
“Tạp bệnh nguyên lưu tế chúc” - bài đại bán
hạ thang (bán hạ, trần bì, sinh phục linh, sinh khương, trị chứng say xe, say
thuyền sinh nôn mửa.
“Tế sinh phưong”. Trị bệnh phụ nữ khí huyết,
bụng đau như dùi đâm, kinh không đều, dùng huyền hồ sách bỏ vỏ, tẩm dấm sao,
đương quy tẩm rượu sao, mỗi thứ một lạng, quất hồng 2 lạng tán nhỏ, chưng với
rượu, lấy hồ viên to bằng hột ngô, mỗi lần uống 100 viên vào lúc đói, lấy ngải
và dấm làm thang.