Công hiệu khác nhau
Tần bông, uy linh tiên đều có tác dụng tán phong khử
thấp, thông kinh lạc, lợi tiện, nên thông các phủ, dẫn thấp nhiệt theo đường đại
tiểu tiện ra. Cho nên trừ được bệnh cốt chưng, giảm được hoàng đảm.
Uy linh tiên cay, mặn, tính ôn. Tán ôn cho nên thông
mà đạt tới thượng tiêu - mặn, ôn nên sẽ lợi, đạt tới hạ tiêu, triệt thượng, dẫn
hạ, thông lợi tiểu tiện thanh tán, cách đàm thủy, bàng quang sưng, ghét nước.
Chủ trị khác nhau
1.
Tần bông chủ trị tê thấp, liệt, co
quắp
Uy linh tiên chủ trị tê liệt, mê
man.
Tần bông cùng uy linh tiên đều có công dụng chữa bệnh
tê liệt đau đớn. Nhưng tần bông là phong dược, tính nhuận, làm thuốc tán, tễ
thuốc bổ đều có thể thư giãn gân cốt, chữa được chứng phong thấp làm cách trở
kinh lạc gây nên các khớp xương đau nhức, gân, mạch co quắp lại càng phải dùng.
Như "Di chi thể chế cường ma mộc”, co duỗi không được, hoặc tại vai, lưng,
hoặc tại thắt lưng, hoặc tại đùi, chân, đầu có chỗ nhất định, mạch sáp và hoãn.
Đó là chính nguyên nhân của bệnh.
Bài Phong tứ vật gia vị gồm có sinh địa, thục địa,
đương quy, bạch thược tẩm rượu, chế hà thủ ô, câu kỷ, khương hoàng, tần bông, mộc
qua, tục đoạn, độc hoạt (Giang tây y được tạp chí-1966)
Uy linh tiên hoạt huyết, thông lạc, có tác dụng giảm
đau rất mạnh. Cho nên bệnh tê liệt mê man, dùng linh tiên. Như "Phổ tế
phương" trị chân tay tê dại, sinh ra đau đớn, hoặc là các bệnh tê liệt liệt
mê man các chứng, lập tức dùng uy linh tiên, sinh xuyên ô đầu, ngũ linh chi tán
mạt, tẩm dấm hoàn, dùng nước muối làm thang uống.
2.
Tần bông trừ cốt chưng
Uy linh tiên chữa các bệnh tê liệt đau đớn, tích tụ.
Tần bông chất nhuận, trị bệnh cốt chưng. Thích nghi dùng chữa bệnh trong máu
nhiệt uất, sinh ra cốt chưng triều nhiệt. Như "Vệ sinh bảo giám". Bài
Tần bông miết giáp tán gồm có sài hồ, miết giáp, địa cốt bì, tần bông, đương
quy, tri mẫu. Dùng thanh hao, ô mai sắc uống, bỏ bã uống nóng để chữa bệnh cốt
chưng, nhiệt nhiều. Cơ nhục tiên sấu (!), mạch hồng, phiền xích, tứ chi khốn quệ,
đêm ra mồ hôi trộm.
Uy linh tiên ôn thông khí huyết, lại mặn nên nhuyễn
được kiên. Có khả năng dùng chữa bệnh tích trệ. Như “Phổ Tế phương”. Bài Hóa
thiết nhuyễn có uy linh tiên, chử đào nhi, mỗi thứ một lạng tán mạt, uống với
rượu nóng để chữa bệnh bĩ tích. “Ấu khoa
chỉ trướng", bài Uy linh tiên hoàn, uy linh tiên tán mạt dùng một viên
bàng hòn đạn to để chữa bệnh tích.
3.
Tần bông chủ trị các bệnh vàng da
Uy linh tiên chữa tâm cách, đờm thủy,
bàng quang bệnh lâu, sợ nước.
Tần bông đắng, cay, tán. Đã hay dẫn thấp nhiệt theo
2 đường đại tiểu tiện mà ra lại khiến phong thấp theo biểu mà giải, nên là thuốc
chủ yếu chữa bệnh hoàng đảm. Như "Thánh Huệ Phương" trị bệnh vàng da
cấp tính, tâm ung phiền não, kíp dùng ngay tần bông, ngưu nhũ mang đun lên rồi
bỏ bã uống nóng. "Thánh huệ phương" bài Tần bông tán có tần bông, tê
giác thái mỏng, hoàng cầm, sài hồ, xích thược dược, nhân trần, mạch môn đông,
xuyên đại hoàng trị bệnh loa hoàng, tâm tỳ nhiệt ưng, da, thịt, mặt, mắt đều
vàng. Bài sa tiền tư tán có sa tiền tử, tần bông, cam thảo, lộc giác thái mỏng
để trị hoàng đảm.
Uy linh tiên chạy mà không giữ lại, nên thông được
ngũ tạng, tiêu đờm, lợi thủy. Dùng chữa tâm cách đờm thủy, bàng quang bệnh lâu
ngày sũng, sợ nước - Như "Ngự dược viện phương" Bài uy linh tiên hoàn
có uy linh tiên tán mạt với rượu tốt. Trị tâm đâu, đờm thủy, bàng quang ủng lâu
ngày. "Phổ tế phương”, thánh kim hoàn (bán hạ uy linh tiên). Trị bệnh đờm
đình trệ lâu ngày, khỏi được xuyễn ho, nôn mửa nhức đầu.
"Thánh huệ phương" bài cam cúc hoa tán chữa
tạng phổi, có đờm độc, hung cách ủy trệ. đêu dùng đến uy linh tiên để mà tiêu,
khắc phục chứng tâm cách đờm thủy.
4.
Tần bông trị trĩ , lậu, tiện bí
Uy linh tiên chữa cuống họng đau, các bệnh hóc
xương, Tần bồng đắng, tiết thống nhị tiện, dẫn đường cho thấp nhiệt đi cho nên
chữa được bệnh trĩ, lậu, tiện bí. Như "Lan thất bí tàng" bài Tần bông
đương quy thang gồm đại hoàng, tần bông, chỉ thực, trạch tả, đương quy, tạo
giác tử, bạch truật, hồng hoa, đào nhân để chữa bệnh trĩ, lậu, đại tiện táo kết
sinh đau đớn - Bài Tần bông thương thuật thang gồm có tần bông, đào nhân, tạo
giác tử chế thương truật, phòng phong, hoàng bá, đương quy trạch tả, binh lang,
đại hoàng, chữa bệnh trĩ lậu, đại tiện bí kết không thống.
Uy linh tiên chữa cuống họng đau. Dùng uy lĩnh tiên
nấu nước uống, hoặc uống thay nước để chữa bệnh cót cách (hòc xương). Cơ thể
dùng độc vị uy linh tiên nấu nước uống dần dần họng sẽ đỡ hoặc có thể phối hợp
với thuốc khác. Như 'Bản thảo cương mục”' trị các bệnh hóc xương, đau cuống họng.
Dùng uy linh tiên sa nhân, đường cát cho nước sắc uống.
Sử dụng đặc thù khác nhau.
Thượng Hải Trung Y dược tạp chí (7-1965) nói rằng: Lấy
tần bông làm chủ, trị trẻ con mắc bệnh hoàng đảm cấp tính, truyền đến viêm gan.
20 ca - sốt nóng nhiều gia hoàng cầm, liên kiều, thấp nặng gia thương truật, bạch
truật, hậu phác. Khỏi hẳn ca, giảm nhẹ 8 ca.
Lâm sàng báo: Trị bênh giun. Lấy ít uy linh tiên một
cân thái nhỏ, cho nước đun nửa giờ, sau chất lấy nước, lại cho đường đỏ 1 cân,
rượu trắng 2 lạng đun nửa khắc – tất cả số lượng thuốc đó dùng trong 5 ngày,
chia làm 10 lần uống hết. Mỗi ngày sáng và chiều uống - Đối với trẻ con lượng
rượu giảm bớt. 33 ca phổ tra bệnh nhân dương tính sau khi điều trị vị trí trung
chuyển sang âm tính 27 ca.
"Bản thảo cương mục" trị người bị tràng
phong hạ huyết lâu ngày. Dùng uy linh
tiên, hoa mào gà mỗi thứ 2 lạng, dấm gạo 2 cân, đun cho khô, sao tán nhỏ, lấy
kê tử bạch hòa làm thành bánh nhỏ, rồi đem nướng khô, lại tán nhỏ lần nữa, mỏi
lần 2 đồng cán, ngày uống hai lần dùng nước cơm uống.
"Bản
thảo cương mục" trị đàm đình trệ lâu ngày, sinh ho, xuyên, thổ, ẩu nghịch,
không ăn được. Lấy uy linh tiên sao, lấy nước bán hạ tẩm rồi nướng, tán mạt.
Dùng nước bồ kết đun canh đặc như cao tán bột hoàn thành viên bằng hột đậu
xanh. Mỗi lần uống từ 7 đến 10 viên dùng nước gừng làm thang, một ngày uống 3 lần
- sau một tháng thấy hiệu nghiệm.