Khí hòa bình, vị đắng nhiều ngọt ít, tính hàn, không có độc, chìm mà giáng xuống, thuốc âm dược, vào kinh Thủ quyết âm, Hương phụ làm tá
CHỦ DỤNG
Chữa các chứng huyết ứ, huyết bế, huyết táo, huyết kết, hành huyết chỉ thống, nhuận đại trường, bụng dạ cứng đau, đau sán khí, ho suyễn khí nghịch lên, bán thân bất toại, trưng hà, ngứa âm hộ (đàn bà ngứa âm hộ, dùng đào nhân giã nát như bùn đen đắp vào), trẻ con sưng dái, sát trùng đuổi tà (Đào nhân là tinh ba của 5 loài mộc, trấn áp được tà tý)
Xem thêm: Đào nhân cùng Hồng hoa
HỢP DỤNG
Có thể chạy vào huyết phận, mà tính của nó nhuận hoạt, được dùng với Ma nhân, Đương quy thì chữa táo bón rất hay
KỴ DỤNG
Tuy nói rằng cay có thể phá huyết trệ, ngọt có thể sinh huyết mới, nhưng đắng nhiều ngọt ít, khí bạc vị hậu, trầm mà giáng xuống, tả nhiều bổ ít, dùng nhầm hoặc dùng nhiều thì ỉa ra máu mãi không cầm được, làm tổn thương chân âm nên phải cẩn thận. Phàm những bệnh huyết kết khí thực thì dùng được, huyết táo khí hư thì phải cẩn thận.
CÁCH CHẾ
Loại hạt có 2 nhân không nên dùng, bởi vì có độc có thể chết người, ngâm nước nóng, bóc vỏ và đầu nhọn, sao đỏ, nghiền nát bét như bùn để dùng
Đào nhân |
NHẬN XÉT
Đào nhân chủ trị các bệnh về huyết, bệnh ứ huyết tất yếu phải dùng nó, bởi vì can là nguần của huyết, huyết tụ thời can khí táo, can sợ căng thẳng, căng thẳng thời kịp uống thuốc ngọt để làm hòa hoãn đi, tính ngọt và hòa hoãn của Đào nhân còn có đắng cỏ thể tán huyết, cho nên Đế đương thang có dùng Đào nhân, bệnh thương hàn 8-9 ngày có ứ huyết mà phát nóng như người điên, bụng dưới đau mà đầy, tiểu tiện tự lợi. Lại có bệnh phát hãn mà không phát hãn, làm cho thế độc lấn vào sâu, sinh thổ huyết, huyết kết lại, buồn phiền vật vã, nói sảng, đều sử dụng bài này.
Tuy rằng đắng để tả huyết trệ, ngọt để sinh huyết mới, nhưng xét kỹ thì công năng phá huyết nhiều mà sức bổ huyết ít, chỉ chạy vào huyết phận mà tính nhuận hoạt, dùng làm tá cho Đương quy, Ma nhân để chữa bệnh táo kết hay như thần vậy