Lời này
thật là cái gương sáng cho các thầy thuốc vì người kém thời chỉ thấy bệnh thời
chữa bệnh mà không xét đến nguyên nhân bệnh, tìm xem bệnh thuộc về loại nào. Nội
kinh nói: “Bổ ích cho tâm dương thì hàn được thông hành (đỡ), làm mạnh thận âm
thì nhiệt cũng lui, đấy là không trị hàn mà hàn tự giải, không công nhiệt mà
nhiệt tự trừ, đạo lý trị bệnh từ gốc rễ vậy”.
Vì sao
kiến thức không chắc chắn nắm cả hai đầu, mù mịt như vượt bể mà hỏi bờ bến, gặp
đâu chữa đấy làm sao tránh được sự mập mờ lầm lẫn và sơ suất được.
1) Người
đời mắc bệnh trong 10 bệnh đã có 9 bệnh hư, thầy thuốc chữa bệnh thì trăm bệnh
chưa bổ một bệnh.
Khí
thiên chân ngày càng suy sụt, con người ở khoảng giao tiếp của khí trời đất thời
bẩm thụ cũng theo đó mà bạc nhược. Phàm khi bệnh, 10 người thì đã có 9 người
thuộc hư, tại sao người chữa bệnh lại không bổ một bệnh nào, trừ một chứng đi lỵ
sơ khởi là không nên bổ.
2) Biểu,
lý, hàn, nhiệt, hư, thực là vấn đề then chốt của thầy thuốc.
Trăm bệnh
của con người biến hóa nhiều mối, bệnh hiện ra không ở biểu thời ở lý, không
hàn thời nhiệt, không thực thì hư. Còn như phép chữa: “Ở biểu thời phát tán, ở
lý thời điều hòa, bệnh hàn thời ôn, nhiệt thời thanh, hư thời bổ, thực thời tả,
chỉ có 6 phép”, đó thực là vấn đề then chốt của thầy thuốc.
3) Có
bài thơ nói rằng: “Thấy đờm đừng trị đờm, thấy huyết chớ trị huyết, không hàn
chớ phát hãn, có nhiệt đừng trị nhiệt. Bệnh suyễn chớ hao khí, di tinh chớ cố
sáp, rõ được đường lối ấy mới xứng đáng là một thầy thuốc giỏi”.
Đờm nhân
vì hỏa bốc mà thể hiện, hỏa giáng thời đờm tiêu, nên đừng có chữa đờm. Huyết vì
khí đưa lên, khí thuận thì huyết về chỗ, nên đừng có chữa huyết. Mồ hôi là huyết
dịch, huyết khô thời không có mồ hôi, bổ huyết thời mồ hôi tự ra, nên không cần
phải phát hãn. Phát nhiệt là do âm hư, bổ thủy thì nhiệt tự rút xuống, nên
không cần phải chữa nhiệt. Khí nghịch lên thời sinh suyễn, dẫn nạp khí về nguồn,
khí có chỗ về thời suyễn khỏi, không nên làm hao khí. Di tinh vì căn bản hư, thận
chủ việc bế tàng, bổ thận thời thu liễm được tinh, chớ nên cố sáp, ấy đều là đường
lối chữa gốc, không công mà tà tự lui, không trị bệnh mà bệnh tự khỏi. Nội kinh
nói: “Chữa bệnh tất phải tìm gốc bệnh, thầy thuốc mà thấu suốt được lẽ huyền diệu
ấy, mới thực là người xuất sắc trong ngành y”.
4) Người
ta chỉ biết chữa bệnh mà không biết gấp giữ gìn tính mệnh.
Phàm tật
bệnh hữu hình không thể chữa nhanh chóng được; mà nguyên khí vô hình kíp nên giữ
vững; vì nguyên dương chợt mất, tình thế như dây đứt, cứu vãn khó kịp. Người
không hiểu chỉ biết chữa bệnh mà không biết giữ tính mệnh. Khi tôi thăm bệnh thấy
có nguy cơ âm vong dương thoát đã chớm nở, thì chăm chú cấp cứu vị khí làm gốc,
tuy có nhiều tạp chứng cũng không dám chiếu cố vụn vặt, vì vị khí chưa bị tổn
thương thì các bệnh khác cũng không lo gì, đợi khi vị khí đã phục hồi, thì
dương hư mới nói đến bổ dương, âm hư mới dám bổ âm; nhưng trong thuốc bổ dương
lại phải tiếp âm; trong thuốc bổ âm lại cần tiếp âm; đại để bổ dương đã mạnh được
mười phần, mới bổ âm đến sáu bảy phần, vì dương là cơ sở của tính mệnh cho nên
phải trọng hơn.
5) Khí
huyết âm dương của con người, vốn không giống nhau; biểu lý hàn nhiệt của bệnh
cũng khác nhau.
Người ta
có khí hư huyết hư, có lệch về dương lệch về âm không giống nhau; bệnh chứng biểu
chứng lý, có hư hàn thực nhiệt khác nhau, tại sao người chữa bệnh, cứ vin lấy
phương sẵn của ngàn xưa, nhập ẩu vào các biến chứng của trăm bệnh, đầu Ngô mình
Sở, thật là khó khăn.
6) Bệnh
của con người biến đổi tuy nhiều, mà gốc chỉ là một; các phương thuốc của người
ta phép linh hoạt tuy nhiều, mà trúng bệnh chỉ là một.
Trăm bệnh
của người ta, tên đặt tuy khác nhau, tóm lại không ngoài một gốc là âm dương
khí huyết. Những phương thuốc hay của người xưa, đều hiệu nghiệm cả; song trúng
bệnh, chẳng qua một phương chữa được một bệnh mà thôi.
7) Vương
Ứng Chấn nói:
Một điểm
chân dương ở Khảm cung
Gốc bền
nên uống thuốc cam ôn
Cam ôn
thời bổ, hàn không bổ
Cười
trách dung y đã dụng nhầm.
Một điểm
chân dương tức là long hỏa ở mệnh môn, vốn sợ lạnh gặp nước càng cháy; gặp thấp
càng mạnh, muốn giữ vững căn bản, duy có vị Nhục quế cam ôn, theo tính nó mà bổ,
không phải vị Tri mẫu, Hoàng bá hàn lương mà bổ được đâu.
8) Trăm
bệnh cứ ngăn chặn gượng, đều không phải phép hay.
Người
xưa nói: “Dụng dược như dụng binh”. Sách binh thư nói: “Tránh lúc địch đang
hăng, đánh lúc địch đã yếu”. Nhà làm thuốc nói: “Tránh lúc bệnh thịnh, đón lúc
bệnh suy”; vì khi tà mới cảm vào, thế tất hung hăng, lúc ấy chỉ nên xét rõ nguyên
nhân thuận chiều mà dẫn đạo, đợi khi bệnh đã suy, mới ngăn chặn được.
9) Người
ta chỉ biết khí huyết thời nói khí là dương, huyết là âm; chỉ biết tạng phủ thời
nói tạng là âm, phủ là dương; biết thủy hỏa chẳng qua biết quẻ Khảm thuộc thận,
quẻ Ly thuộc tâm mà thôi; nào có biết được khí huyết lại có căn bản của khí huyết,
âm dương lại có bộ vị chân âm chân dương, thủy hỏa lại có gốc của chân thủy
chân hỏa.
Đạo làm
thuốc chia ra hai ngả Vương đạo và Bá đạo khác nhau. Vương đạo tức là đạo làm
thuốc (y đạo), Bá đạo tức là thuật làm thuốc (y thuật). Vương đạo thời lấy gốc
tìm nguồn để chữa mệnh, mà không chữa bệnh, Bá đạo thời chữa đầu chữa chân, chữa
ngọn không chữa gốc. Ôi! Nghề làm thuốc không phải là có Vương đạo, Bá đạo, chỉ
có sự hiểu biết nông sâu mà thôi. Cho nên người hiểu nông chỉ biết lấy tạng phủ
khí huyết làm âm dương, lấy tâm thận làm thủy hỏa, hoàn toàn không biết chân âm
tức là chân thủy, làm căn bản cho huyết; chân dương tức là chân hỏa, làm nguồn
gốc cho khí; ấy đều là thủy hỏa vô hình của tiên thiên, căn bản của sự sống, cội
rễ của tính mệnh, làm cương lĩnh chủ yếu cho các bệnh, người ta tìm sự sống, thầy
thuốc chữa bệnh hay, không ngoài thủy hỏa ấy được.
10) Phàm
dùng thuốc bổ dưỡng mà bệnh không tăng lên tức là đỡ, vì trong đã được bồi dưỡng
rồi. Dùng thuốc công phạt, thấy không đỡ tức là bệnh tăng, vì trong đã bị công
phạt.
Sách
nói: “thực thời chịu được thuốc hàn, hư thời chịu được thuốc nhiệt”, đó là lẽ
thường về phép công và bổ. Nhưng công thì chóng, bổ thì chậm, cho nên bổ mà bệnh
không tăng là không có thực tà; công mà bệnh không đỡ là chính khí hư.
11) Phép
chữa chứng hư nên bồi bổ chỗ bất túc không nên công phạt chỗ hữu dư. Phàm đã vì
hư tổn sinh bệnh, mà lại còn công phạt chỗ hữu dư, thời hai đàng đều bại hoại
mà thương tổn cả.
Thủy bất
túc, nhân đó mà thấy hỏa hữu dư; Thủy hữu dư là vì hỏa bất túc; Thủy bất túc thời
bổ thủy để chế hỏa, hỏa bất túc thời bổ hỏa để sánh với thủy. Nếu ghét thủy hữu
dư mà phạt thủy để cứu hỏa; thấy hỏa hữu dư, mà tả hỏa để cứu thủy, thời thủy hỏa
đều tổn thương, hai đàng đều bại hoại cả, suy rộng ra, chữa khí huyết âm dương
cũng giống như thế.
12) Thuốc
dùng lâu thời tăng khí, là lẽ thường sinh hóa của muôn vật; khí tăng lên do
dùng thuốc lầm lẫn là nguyên nhân chết yểu.
Phép chữa
bệnh quý hồ trúng bệnh thì thôi, bồi bổ quá còn lo ngại đầy tràn, huống chi
công phạt quá; Trung hòa là lẽ thường sinh hóa của muôn vật. Huống chi thuốc
hàn thuốc nhiệt; dùng lâu thời tăng khí, tức là lệch về một bên; khí tăng lên
là nguồn do sinh ra sự chết yểu. Vì thế uống Hoàng liên lâu ngày lại hóa ra nhiệt;
uống Mộc hương lâu ngày thì lại hóa ra trệ; ấy là nguyên do khí tăng thành ra
thiên lệch.
13) Chứng
hư hiện tại đã có, mà không bổ cứu; Tà khí vô hình chưa tới mà công phạt rằng:
“Có bệnh thì bệnh chịu không hại gì”. Nếu không có bệnh thì chính khí càng nguy
khốn.
Sách
nói: “Biết được ngọn, chỉ chữa gốc mười người không sai một”; ấy là phép bổ hư,
thực là yếu tố để trừ bệnh. Kẻ không hiểu chẳng xét: “tà khí sở dĩ phạm vào được
là chính khí đã hư”; cốt biết lúc tà khí đương căng thẳng là lúc chính khí nguy
khốn; kẻ không hiểu chỉ biết chữa bệnh mà không biết giữ tính mệnh; Có bệnh thời
bệnh, nếu không có bệnh thời tỳ, vị thành chỗ chiến trường, ngọc đá cũng cháy cả.
14) Dùng
thuốc hữu tình mà vô hình để chữa càn cho loại khí vô hình mà hữu tình, muốn
cho không bị tổn thương thì có được hay không?
Phàm cây
cỏ hữu hình, mỗi thứ chỉ được một trong 6 vị, vốn là vô tình; nguyên khí vô
hình là cơ sở của sự sống, vốn là hữu tình; Phàm có bệnh, vốn vì hư mà gây ra;
người không hiểu không biết mượn khí ấy, lấy vị ấy để điều bổ nó, khiến cho vật
vô tình thành ra hữu tình, từ chỗ không sinh ra có; mà lại công phạt càng dở, để
tác hại nhanh chóng ru?
15) Mọi
chứng thoát đã đầy đủ mới bàn đến phép bổ thì còn bổ vào đâu?
Thầy thuốc
khi lâm sàng phải cẩn thận, phải quả quyết, sự việc tính trước, cơ hội phải thấy
trước, cho nên nói chữa lúc bệnh chưa phát, không chữa lúc bệnh đã phát, nếu định
kiến không đúng, sợ lạnh, e nóng, đến khi âm vong dương thoát mới đem thuốc bổ
để cứu thời tật bệnh hại người đã không trừ được kịp, mà nguyên khí để sống người
đã tuyệt trước rồi. Thử xem bệnh thấy giả nhiệt, nhận lầm là chân nhiệt, uống ẩu
thuốc hàn lương để công trục thời hỏa vô căn ở ngoài tắt, chân hàn ở trong sinh
ra, trán toát mồ hôi, tay chân quyết lạnh, dấu hiệu hư thoát đã thấy đủ, bấy giờ
mới rối rít đem Sâm, Phụ cho uống thì sức cô dương đã cùng, tựa như sợi dây sắp
đứt, cứu vãn sao kịp.
16) Bổ
là nói trong thân thể thiếu chất gì, ta đem chất ấy bồi bổ vào, để bổ sung chỗ
thiếu ấy.
Bổ là
nói bổ sung vào chỗ thiếu, nhưng trong đó có chia ra nhiều phép khác nhau như:
tuấn bổ, điều bổ, tư bổ, tiếp bổ, không thể nhất khái lẫn lộn, nếu bổ không
đúng phép thì khác nào gãi ngứa bên ngoài giầy; mà bồi bổ quá mức thì lại bị
cái vạ khí tăng lên dữ quá sinh cái vạ chết non.
17) Đã
biết rằng trăm bệnh cảm vào, không bệnh nào là không vì chính khí làm gốc mà
ngoại tà làm ngọn.
Trong
con người, âm được thăng bằng, dương được kín đáo, tinh thần mới yên ổn, bệnh sẽ
không phát ra được. Đó là nói trăm bệnh sinh ra đều do hư cả, thầy thuốc nên lấy
phù chính bổ hư làm gốc, trừ cảm khu tà làm ngọn, mới là tay cừ trong nghành
nghề. Sách nói: “Biết được ngọn chỉ chữa gốc, chữa nghìn người không sai một”
chính là như thế.
18) Chữa
chứng hư không có phép nhanh, cũng không có phép khéo, như nhà nghèo lâu năm,
trong nhà trống rỗng, không phải việc chốc lát đã xong được.
Phàm
phép chữa chứng cực hư, trước phải tuấn bổ rồi đến đại bổ, tiếp đến điều bổ,
sau mới tư bổ, cho nên trước chữa mạnh, sau chữa dần, cốt lấy thành công. Nhưng
chứng hư có hai loại, loại bổ dương thời chóng, loại bổ âm thời chậm. Sách nói:
“Dương hỏa dễ cứu, âm thủy khó cứu”, vì chứng âm hư, tân dịch ngưng kết, tinh
huyết hao khô, sáu mạch phù sác, ngũ tạng khô kiệt, duy người bệnh chuyên tâm một
mực, thầy thuốc định kiến chớ thay đổi, tìm nhiều thuốc men trong thức ăn, trọng
dụng các thuốc hữu tình hoặc theo phần dương để sinh âm, hoặc giúp phần âm để
hóa dương, ví như nhà nghèo chỉ chăm làm lụng, kiếm chắt dành dụm, thà thêm một
đấu gạo chẳng thà thêm một nhân khẩu, ngày tháng tích lũy, mới có thể chống đỡ,
giữ vững được, không phải sớm chiều mà thành công được ngay.
19) Bệnh
làm cho thầy thuốc phải khổ tâm nhất, chỉ có bệnh âm hư khó bổ, tích lâu khó
tiêu.
Ví như
âm hư tất nội nhiệt nung nấu; dùng riêng thuốc bổ âm để cứu thủy, vì vị yếu mà
ăn kém, cơ nguy thoát sẽ tới dần; dùng riêng dương dược để bổ thổ thời dương thịnh
mà âm tiêu, thế đốt cháy càng dữ, thực là sợ nóng sợ lạnh, hai đường khó khăn.
Bệnh hòn tích ắt ngắn hơi, ăn yếu; nếu dùng phép trục tán thời sức mệt nhọc
không chịu nổi, sợ nguyên khí lại bại hoại trước bệnh tật, nếu mà tư bổ thời
hòn tích lại to thêm, sợ như gói gạo tiếp tế cho giặc, khi ấy hễ bổ thì trệ lại,
công thì hư thêm, biết làm cách nào? Cho nên người xưa có lời than: Núi ngọc tự
nghiêng nuôi dùm thêm lo, chính là ý ấy.
20) Mạch
thực chứng thực thời công tà để chữa ngọn, mạch hư chứng hư thời bổ chính để chữa
tận gốc.
Thực thì
tả, hư thì bổ là lẽ thường của nghề thuốc, nhưng mạch là làn sóng của khí huyết,
ai mà hiểu hết được lẽ tinh vi, chứng nhiều giả tượng về hư thực, ai mà khỏi sự
nhầm lẫn sơ suất, tôi có một phép rất linh hoạt, thường dùng không còn nghi ngờ
gì, điều cốt yếu là trước nên xem khí bẩm mạnh hay yếu, hoặc già trẻ sức vóc thế
nào, hoặc sang hèn hoàn cảnh ra sao, cùng với sau khi đẻ hay sau cơn bệnh nặng
rồi mới xét đến 6 mạch vô thần hay hữu lực, tuy có nhiều tạp chứng rối ren, đều
lấy bổ hư cứu bản làm gốc. Nếu không phải là hư thì cứ theo thực chứng mà chữa,
mới tránh khỏi được tai ương. Hãy xem như Tiết Lập Trai nói: “Phàm nguyên khí
hư nhược mà phát sốt, đều là trong chân hàn mà ngoài giả nhiệt cả”. Lại nói:
“Chữa bệnh nên lấy trung khí làm chủ, chứng ngoài là khách tà, không đủ làm bằng”.
Lại nói: “Nên xét nguyên khí là chủ, rồi sau mới xét đến tật bệnh”, đó đều là lấy
nguyên khí làm kim chỉ nam, mà biết được bệnh hư hay thực.
21) Bổ
mà không thấy công hiệu phần nhiều là chứng thực, công mà không thấy hiệu nghiệm
phần nhiều là chứng hư.
Chứng thực
thì chịu được thuốc hàn, chứng hư thời chịu được thuốc nhiệt, ấy là thực thời
công, hư thời bổ. Cho nên bổ mà không thấy công hiệu, không chịu thuốc nhiệt là
thực chứng. Công mà không thấy hiệu nghiệm, không chịu thuốc hàn tức là hư chứng.
22) Thà
lấy phép chữa chứng bất túc mà chữa chứng hữu dư thì được, chứ lấy phép chữa chứng
hữu dư đem chữa chứng bất túc thì không nên.
Chứng hư
có nhiều giả tượng, chứng thực mà có hình trạng gầy yếu, bổ nhầm càng làm cho bệnh
tăng thêm, chứng hư mà có trạng thái cường thịnh, nếu tả thì chết oan, vì rằng
lỡ bệnh tăng thêm còn có thể bổ cứu, còn như chết oan thì còn chuộc mạng sao được,
cho nên bậc tiên triết có lời dậy nghiêm khắc rằng: “Thà nhầm vì ôn, bổ, không
nên nhầm vì hàn lương”, những người thầy thuốc phải nên cẩn thận.
23) Biện
chứng được đúng, thời cho uống thuốc đại hàn đại nhiệt, cũng vẫn có ích cho người
bệnh.
Thầy thuốc
phải cẩn thận, phải quả quyết, đối chứng lập phương thì định kiến đừng thay đổi,
nắm vững không hoang mang, gặp chứng đại thực không dùng mạnh thuốc hàn lương
thì không đủ sức công tà, thấy chứng đại hư không dùng nhiều thuốc ôn bổ thì
không đủ cứu được tính mệnh. Cốt sao dùng thuốc được đúng bệnh, thời dùng đại
công, đại bổ cũng đều có ích lợi cho người bệnh cả.
24) Phàm
chẩn đoán bệnh trước nên xét nguyên khí làm chủ yếu rồi sau mới xét đến bệnh tật.
Trăm bệnh
đều bởi hư mà gây ra, cho nên chữa bệnh phải tìm gốc tìm nguồn, lấy nguyên khí
làm điều chủ yếu rồi mới xem rộng đến các chứng tỉ mỉ khác, yên được chính khí
thời hóa tán được bệnh tà, chân nguyên đã hồi phục thời bệnh sẽ khỏi.
25) Thầy
thuốc đời nay, chỉ biết tà khí hữu hình mà không biết nguyên khí vô hình, hữu
hình là có hình tích thịnh suy rõ rệt, nhận thức không khó, vô hình là thần
minh biến hóa chớp nhoáng, cứu vãn rất gay.
Thầy thuốc
thấy bệnh cứ chữa bệnh mà không biết giữ tính mệnh, tật bệnh hữu hình có thể chữa
dần, nguyên khí vô hình phải nên củng cố gấp, vì nguyên khí chợt mất, thế như đứt
dây. Thường thấy khi chữa bệnh hư, cứ chờ tật bệnh hết rồi, mới nói đến bổ, đến
khi bổ thì nguy cơ khí thoát đã đến, còn bổ gì được nữa.
26) Phải
biết các bệnh, không thể vượt ra ngoài chân âm chân dương, mà sự sống của người
ta cũng không thể vượt ra ngoài chân âm chân dương, chân âm chân dương là điều
cốt yếu của các bệnh nguy, mà cũng là căn bản của sự sống.
m dương
là hư danh, thủy hỏa là thực thể, âm dương là thể, thủy hỏa là dụng. Chân âm
chân dương trong thận tức là chân thủy chân hỏa, là gốc của sự sống, là căn bản
của tính mệnh. Sách nói: “Gặp chứng hư nên giữ thận để bồi dưỡng sinh mệnh” cho
nên nói người làm thuốc không hiểu suốt được sự hiệu dụng của thủy hỏa vô hình,
không biết trọng dụng bài thuốc hay như Lục vị, Bát vị thì đối với y lý còn thiếu
sót đến quá nửa.
27) Định
kiến của thầy thuốc không thay đổi, tâm chí của người bệnh phải kiên trì thì chữa
bệnh mới có thể thành công.
Phép bổ
chỗ hư, lấp chỗ thiếu cũng ví như nhà nghèo mới lập nghiệp, mọi việc không phải
một sớm một chiều mà xong ngay, nên khó có thể đòi hỏi công hiệu ngay trước mắt,
cốt ở thầy thuốc vững tâm như sắt đá, khỏi tiếng chê bệnh một đường cho thuốc một
nẻo, người bệnh phải hết lòng tin tưởng chớ có thái độ sớm thầy này chiều thầy
khác, phải chờ đợi lâu ngày mới thành công được.
28) Nào
có biết bệnh với mệnh, bên nào khinh bên nào trọng; tà với chính đường nào hoãn
đường nào cấp.
Người
không hiểu chỉ biết chữa bệnh, mà không biết giữ mệnh, vì tật bệnh hữu hình thì
có thể chữa dần; nguyên khí vô hình phải nên giữ gấp, ấy là khinh trọng, hoãn cấp
tự khác nhau xa, không đợi phải nói.
29)
Phương là thể, pháp là dụng, chỉ biết thể mà không biết dụng là sai. Thể và dụng
không sai mới là thầy thuốc giỏi.
Phương
nghĩa là phỏng theo, phỏng theo bệnh ấy mà lập ra phương ấy, là một thôi không
biến đổi. Pháp là cách chữa có chứng ấy thì chữa bằng phép ấy, là sự diệu dụng
vô cùng. Thầy kém chỉ bo bo giữ lấy phương sẵn, không biết phép linh hoạt, được
thể mà mất dụng. Nếu thầy thuốc giỏi, thì cho phương là kiểu mẫu, lấy phép để ứng
biến, thể dụng đều làm không bó buộc nhất định.
30) Mặt
mũi người ta tuy khác nhau, nhưng tạng phủ âm dương thời như nhau. Tên gọi trăm
bệnh tuy khác nhau, tóm lại không ngoài khí huyết và không vượt khỏi lẽ âm
dương.
Phùng
Triệu Trương nói: “Lấy phép chữa một bệnh có thể suy rộng ra để chữa trăm bệnh.
Phép chữa trăm bệnh rút cục căn bản cũng như chữa một bệnh”, vì người ta ai
cũng khí huyết ấy, tạng phủ ấy, âm dương ấy mà thôi chứ không khác gì cả. Phân
chia ra thì khác nhau, tổng hợp lại thì là một lý. Nội kinh nói: “Biết được cốt
yếu thì một lời nói là đủ, không biết được cốt yếu thì lan man vô cùng” chính
là ý ấy.
31) Người
xưa dùng thuốc, lúc thu liễm, lúc sơ thông không trái với ý nghĩa đóng giữ
thông lợi (sơ tiết bế tàng).
Vì lẽ tự
nhiên một đóng một mở, dương mở thì âm đóng, mùa xuân mùa hạ phát sinh ra thì
mùa thu mùa đông đóng giữ lại. Không mở, thời không đóng; không đóng, thời
không mở, ấy là các sự đầy vơi mòn lớn (doanh hư tiêu trưởng), lên xuống nổi
chìm (thăng giáng phù trầm) ấy là một thể một dụng của tạo hóa, cho nên người
xưa dùng thuốc tất khi đóng khi mở, theo đúng lẽ của âm dương. Như vị Trạch tả
trong bài Bát vị, vị Phục linh trong bài Tứ quân, vị Mộc hương trong bài Quy tỳ,
vị Xuyên khung trong bài Tứ vật, vị Đăng tâm trong bài Tố nguyên, vị Trần bì,
Ngũ vị trong bài Dưỡng vinh, vị Thăng ma, Sài hồ trong bài Bổ trung, đều căn cứ
theo lẽ ấy, vì không tả thời không bổ được.
32) Mạch
thể hiện tình trạng chân thực của tạng phủ, chứng có nhiều giả tượng đáng ngờ.
Mạch là
khí huyết điều hòa, thiên chân là gồm cả đức tính của âm dương, là căn nguyên của
khí huyết. Chứng là ngọn của bệnh, hiện ra giả tượng giống như thực. Sách nói:
“Thầy thuốc xem mạch giỏi, thì chẩn đoán đúng bệnh”