Hai vị
hợp lại vừa có tác dụng thanh nhiệt và tán thủy.
- Tri mẫu: khổ
nhuận hợp với Thạch cao để tả vị nhiệt.
- Mạch môn hợp
với Thục địa có tác dụng dưỡng âm, tăng tân dịch.
- Ngưu tất có
tác dụng dẫn dược, giáng hỏa xuống dưới.
- Vị nhiệt thịnh
mà thận âm hư không rõ, trái lại sốt cao, lưỡi đỏ thẫm, miệng khô khát nước thay
Thục địa bằng Sinh địa, Ngưu tất bằng Huyền sâm để sinh tân lương huyết, thanh
nhiệt.
- Trường hợp âm
hư rõ rệt thì tăng lượng Thục địa làm chủ dược.
- Nếu nhiệt
thịnh, bỏ Thục địa, dùng Sinh địa gia Đơn bì, Mao căn, Hạn liên thảo để lương
huyết, chỉ huyết.
- Nếu vị nhiệt
thịnh mà nôn ra máu tăng lượng Thạch cao, Ngưu tất để gia cường thanh vị nhiệt
dẫn huyết đi xuống và gia Đại giả thạch, Ngẫu tiết để lương giáng chỉ
huyết.
- Nếu thiên về
âm dịch bất túc nên uống ấm. Nếu thiên về vị hỏa mạnh nên uống
lạnh.
- Trường hợp viêm miệng, viêm lưỡi cấp đều có thể dùng bài thuốc này điều trị. Nếu chất lưỡi khô đỏ thẫm hoặc trơn không có rêu, tức vị âm bất túc, cần gia thêm Sa sâm, Thạch hộc để dưỡng âm, sinh tân.
Ứng dụng lâm
sàng:
Bài thuốc có tác dụng chữa các chứng
âm hư vị nhiệt, phiền nhiệt, mồm khát, đau đầu, đau răng hoặc thổ huyết, chảy
máu cam, lưỡi khô đỏ, rêu trắng hoặc vàng khô, mạch phù hoạt hoặc hồng hoạt. ấn
vô lực.
Nếu nhiệt thịnh gia Chi tử, Địa cốt bì. Nếu nhiều mồ
hôi, khát nước gia Ngũ vị tử, tiểu tiện khó gia Trạch tả, Phục linh. Nếu có hiện
tượng khí âm hư gia Nhân sâm.
Chú ý: Trường hợp tiêu chảy không nên
dùng.