Công
hiệu khác nhau
Cốc tinh thảo cùng
mật mông hoa đều có công dụng khử phong tán nhiệt minh mục. Cho nên chữa được bệnh
mắt đỏ mắt có nhiều nhử. Hai vị thường hay dùng phối hợp Nhưng cốc tinh thảo
tính vị cay, ngọt, hương, vào hai kinh can, chất thì nhẹ, vừa đưa lên vừa tán
ra ngoải, hay dùng cho can và vị chữa nhử mắt rất hay, dùng chữa cảm phong nhức
đầu.
Mật mông hoa tính vị
ngọt, hàn chủ vào can kinh, về chất thăng và tán không bằng cốc tinh thảo nhưng
vị ngọt hơn bổ can huyết, nhuận can táo, hàn nên trừ can nhiệt, sở trường thanh
bổ, dùng chữa các bệnh về gan. Cho nên các bệnh về mắt không cứ gì hư hay thực
đều dùng được cả. Càng nên dung chữa can thận hư có nhiệt.
Chủ
trị khác nhau
1.
Cốc
tinh thảo chủ trị mắt đỏ, có nhử, thuộc về thực chứng
Mật
mông hoa chủ trị hư chứng bệnh của mắt
Cốc tinh thào sơ tán phong nhiệt, minh mục
thoái ế, thường dùng chữa mắt đỏ có như. Như "Cương mục" trị trong mắt
có nhử, có màng dùng cốc tinh thảo, phòng phong hai vị bằng nhau, tán nhỏ uống
với nước cơm. "Phúc kiến dân gian thảo dược" có bài trị phong nhiệt mục
ế, dùng cốc tinh thảo, gan vịt dùng sau khi ăn cơm.
Mật mộng hoa đã hay
thanh can minh mục, thoái ế, dùng để chữa các chứng đã kể ở trên, lại hay dưỡng
huyết bổ hư dùng chữa mục tật hư chứng (các bệnh đau mắt hư hàn). Như
"Ngân hải tinh vị" có bài Mật mông hoa tán dùng mật mông hoa, khương
hoạt, cúc hoa, mạn kinh tử, thanh tương tử để chữa bệnh mắt khó nhìn, sợ ánh
sáng, vì can đởm bị hư tổn con ngươi không được trong.
2. Cốc tinh thảo chủ chữa phong đầu thống, răng đau, phong
cam.
Mật mông hoa trị uất nhiệt, can táo
Cốc tinh thảo thăng tán hỏa uất ở can vị nên dùng chữa
nhiệt uất ở can vị nên gây nên bệnh phong thống đau, bệnh cam. Như “Thánh tế tổng
lục” Cốc tinh thảo trị hung phong, đầu thống nên dùng cốc tinh thảo, di đồng
xanh (đồng lục), tiêu thạch, dã nhỏ, hòa đều mỗi lần dùng một ít, thổi vào
trong mũi.
"Điều thăng thản tập nghiệm phương” chuyên trị
bệnh đau đầu. Dùng cốc tinh thảo tán mạt, dàn mỏng ra tờ giấy rồi đăp vàochỗ
đau có nhử hễ khô thi lại thay.
"Thánh huệ phương" Cốc thinh thảo tán nhỏ
trị bệnh đau răng, cam phong răng; răng gãy rời ra. Dùng cốc tinh thảo đốt
thành than, bạch phàn phi, thiểm tô, một dược, dạ hương, tất cả đều nghiền nhỏ.
Mỗi lần một ít bôi vào chỗ đau.
Mật mông hoa dưỡng huyết, nhuận can thanh can. Thích
ứng dùng cho các chứng can nhiệt, huyết hư. Như hiếp thống, nhiệt thấp, du ráp,
mắt mờ, miệng đắng, lưỡi đỏ, ít có rêu, mạch tế, xác. Tại lâm sàng sẻ dụng mật
mông hoa phu hợp với cam cúc hoa, câu kỷ tử, sa uyển tử, toàn phúc hoa, sinh bạch
thược, nỗi lần chữa là có công hiệu.
Đặc thù sử dụng khác nhau
"Bảo ấu đại toàn" trị tiểu nhi trúng thử,
thổ tà, phiền khát dùng cốc tinh thảo đốt tồn tinh, khéo léo đổ ra, rồi cứ để
thế mà tán nhỏ mỗi lần dùng nửa đồng với nước cơm.
“Tập nghiệm phương" trị chứng đau đầu - Dùng cốc
tinh thảo một lạng tán nhỏ dàn mỏng ra tờ giấy đắp vào chỗ đau, hễ khô lại
thay.