Công hiệu khác nhau
Cúc hoa và mộc tặc đều là vị thuốc sơ tán phong nhiệt,
làm sáng mắt. Nhưng cúc hoa hơi hàn, vị ngọt, đắng, dùng thanh nhiệt, làm mát
gan lực rất mạnh, lại kiêm giải độc, bình can, thế dương có tác dụng tốt. Mộc tặc
tính bình, tác dụng thanh lương không bằng cúc hoa nhưng nó sở trường làm hết
nhử mắt. Cả hai vị thuốc này đều vào huyết phận. Cúc hoa lợi huyết khí cơ lẽ
như sau:
Hoặc do cao lương hậu vị - hoặc nhân ôn độc xâm nhập
- nhiệt làm úng tắc mạch - huyết nhiệt nôn không hoạt.
Tích mãi làm cho tích huyết lâu ngày thành thối. Cúc
hoa vị đắng, đắng làm cho huyết chạy, đắng tiết ra làm thanh lý, cho nên trừ được
độc trong máu, huyết hoạt thì ứ hết nên lợi được huyết khí. Hoặc nhân phòng lao
(phòng dục quá độ sinh mệt), hoặc do thận hư lâu năm. Can thận âm hư nên suy
nhược ở dưới. Dương khí phù nên thịnh ở trên. Huyết cũng theo uất trên, huyết
khí ưng tấc thực không hay. Cúc hoa vị ngọt, hơi hàn, dưỡng âm, ích can, bình
can nhiếp giáng, nên có khả năng khử được thượng thực, nên lợi huyết khí. Hoặc
nhân có uất giận, khi huyết chạy nghịch làm cho huyết khí tịch ở đầu bộ.
Cúc hoa sở trường bình can, ức chế được mộc khí (can
khí) đi ngang, nên lợi được huyết khí. Nêu can hỏa bốc thẳng lên đỉnh cao thì
huyết uyển cũng lên theo. Vị thuốc này còn khéo bình can nên bệnh nhẹ tự giải
được.
"Bách dược hiệu dụng kỳ quan" mộc tặc lại
hay hòa ứ và cầm máu. Chính như "bản thảo chính nghĩa" nói rằng: chữa
bệnh yết hầu tê đau, lỵ ra máu, ỉa ra máu, trĩ ra máu, băng huyết hàng tháng
kinh nguyệt cứ lâm ly (rỉ ra không hết) sán khí các chứng, đều do khí trệ huyết
ứ, can uất không sờ được nên thành bệnh. Sơ tiết trệ ở âm đạo, thăng tán uất
nhiệt phạt can mộc, mới đạt được tính thuận, đó là công dụng của mộc tặc chữa
được hết những việc trên.
Chủ trị khác nhau
1.
Cúc hoa chủ trị mọi bịnh ở mắt
Mộc
tặc chủ trị nhử mát, sưng trướng
Cúc hoa, mộc tặc thường dùng phối hợp để chữa đau mắt
đỏ, sưng, đau nhức. Như "nhất thảo đình mục khoa toàn thư" có bài
thuyên hoa tán, mật mông hoa tán nhưng cúc hoa lợi huyết khí cho nên chữa được
chứng huyết kí không lợi, sinh ra bệnh tật đau mắt. Như thị võng mạc, mạch lạc
bị viêm, tính thị thần kinh bị viêm cấp, thanh quan nhỡn (ánh mắt xanh) động mạch
cứng làm cho đáy mắt chảy máu.
Mộc tặc sở trường làm sạch nhử mắt, trị sưng như
"nhất thảo đình mục khoa toàn thư", bài thiếu cảm hoàn gồm cổ dạ minh
sa, đương quy, mộc tặc, thuyền thoái, dùng chữa bệnh mắt đỏ ăn lấn dần dần vào
bên trong sinh ra nội trướng, mọi phương thuốc đều không có công hiệu nữa.
"Phương mạch chính tổng" trị bệnh mắt sưng mờ lấm nước mắt gồm có Mộc
tặc theo 30 khác tán nhỏ hòa với gan dê băm nhỏ làm hoàn. Sáng sớm, sau bữa ăn
thì uống 4 khấc.
2. Cúc hoa dùng chữa
trúng phong
Mộc
tặc chữa các bệnh xuất huyết.
Huyết
khi không hợi, kinh lạc bị ứ trở, huyết ứ sinh phong, nhẹ thì chóng mặt, nặng
thì bán thân bất toại (nửa người không cử động được) mồm miệng méo lệch, hôn mê
không nói được, lưỡi có huyết ứ, mạch càng cũng như dây đàn. Cúc hoa lợi huyết
khí cho nên chữa được chứng ấy. Như "kim qũy yếu lược" hầu thi hắc
tán trị đại phong, trọng dụng cúc hoa 40 phân, còn các thuốc khác không qáa 10
phân.
Mộc tặc chữa ứ huyết nên cầm được máu chảy như
"phố tế phương" chữa bệnh đi ỉa ra máu không khỏi. Dùng mộc tặc thảo
12 kinh, cho nước sắc uống.
“Chỉ
nam phương'’ bồ hoàng tán trị thuần hạ thanh huyết. Dùng tô hoàng 120 khắc, mộc
tặc 30 khắc, giã nhỏ, dùng nuớc cơm uống chiêu đi. "Bảo khánh tập phương”
trị kinh nguyệt đàn bà không đều, dẫn đến băng, lậu không chỉ. Sử dụng vỏ cây cọ
đốt cháy, mộc tặc, sạ hương.
3. Cúc hoa dùng chữa
ung thư, đinh nhọt
Mộc
tặc trị thoát giang
Cúc hoa thanh nhiệt, giải độc, thích nghi dùng chữa
ung thu sang đinh như "toán trúc đường tập nghiệm phương”.
Ngừa độc đinh sang, gồm thủy đinh
sang lũ nghiệm phương, sử dụng cúc hoa giả vắt nước dùng một, lượng rượu vừa phải,
uống chiêu đi, lại thêm một ít nước muối bôi vào chỗ đau "sủy ma hữu đắc tập"
bài cam cúc thang gồm cổ cúc hoa 20 khắc, kim ngân hoa 4-5 khấc sinh cam thảo 9
khắc, cho nước vào sắc uống để trị đinh độc - "ngoại khoa thập pháp” bài
cúc hoa cam thảo thư (bạch cúc hoa, cam thảo để chữa đinh (đầu đanh)).
Mộc tặc có khả năng chữa thoát giang như "tam
nhân phương" có bài thuốc chừa thoát giang 5 năm không khỏi gồm có Mộc tặc,
không kể nhiều ít, đốt cháy tồn tính, tán mạt, rác vào trên giang môn rồi băng lại.
4. Cúc hoa dùng trong
ôn bệnh
Mộc
tặc dùng chữa tràng phong, huyết lỵ.
Cúc hoa dùng ôn bệnh. Như "ôn bệnh điều biện”
có bài tang cúc ẩm chữa ôn phong ở kinh thủ thái âm, ho, mình không nóng lắm,
khát nhẹ, bởi cúc hoa có tác dụng lợi khí huyết nên chữa được. Nhân đó không những
là ôn tà tại vệ mà còn ôn độc xâm vào doanh huyết. Nhiệt làm úng tắc mạch máu,
huyết khí không lợi, đầu nhức như dao cắt ác liệt đến nỗi tinh thần hôn mê, lưỡi
cứng, cũng nên dùng thang cúc hoa thanh doanh thang hoặc thang thanh ổn hại độc
uống.
Mộc tặc vốn trị ứ huyết nên cầm dược các bệnh xuất
huyết, nên dùng chữa bệnh tràng phong hạ huyết, lỵ ra máu. Như "Nhân trai
trực chỉ phương” có bài Mộc tặc tán gồm mộc tặc mộc mạn, chỉ xác, học giác, phục
linh, kinh giới trị tràng phong hạ huyết. "Thanh huệ phương" có bài
trị huyết lỵ bật chỉ, dùng mộc tặc 15 khắc lấy nước sắc uống.
Sử dụng đặc thù khác nhau
Cúc hoa lợi huyết khí. Như chế cúc hoa thanh thuốc tễ
để chữa các bệnh về tim. Dùng bạch cúc hoa 10 lạng, dùng nước nóng tẩm ngâm
trong nước, ngày thứ hai để sắc lại hai lần, mỗi lần độ nửa giờ, đợi khi chìm hết
sau đó bỏ phần chìm, rồi lại rút canh đặc lại đến 500 gr đổ một lượng dầu
bezing thích hợp, dấm hòa với đường tinh, mỗi ngày hai lần mỗi lần 25 gr. Kinh
nghiệm thực xét 61 lần khỏi bệnh.
Mộc tặc chữa huyết ứ, chữa được các chứng xuất huyết.
Như "thánh thế tổng lục" trị âm đạo phụ nữ sa xuống không dứt dùng trắc
bá tán phương, dùng lá trắc bách diệp, mộc tặc đêu một lạng tán nhỏ, mỗi lần uỗng
hai thìa với rượu chiêu đi. Nhiều phương pháp chữa bệnh tỵ nục (đổ máu cam
không khỏi). Dùng thích kế, mộc tăkc mỗi thứ một phân, bách diệp một đồng, tán
nhỏ để dùng.