Công
dụng khác nhau
Hoàng
tinh cùng ngọc trúc, tính vị và công dụng gần giống nhau. Hai vị đều có công dụng
dưõng âm, nhuận táo, sinh tân, chi khát.
Hoàng
tinh ngọt, bình, không những bổ khí lại còn dưỡng âm, ích tinh, là vị thuốc bổ
hai mặt khí và âm.
Ngọc
trúc ngọt hơi hàn, công dụng thiên về dưỡng âm, nhuận táo, vả lại chủ trị âm hư
ngoại cảm.
Chủ
trị khác nhau
1 - Ngọc trúc
chủ trị âm bát túc
Hoàng
tình chủ tỳ vị khí hư
Ngọc
trúc vị cam, vi hàn, công dụng thiên về dưỡng âm, nhuận táo. nên dùng cho các bệnh
vị âm bất túc, dẫn đến các chứng phiền táo, miệng khát, đói mà không muốn ăn,
miệng lưỡi khô táo đại tiện bí kết.
Như
"Ôn bệnh điều biện" ích vị thang
(sa sâm, mạch môn đông, sinh địa hoàng, sao ngọc trúc, băng đường). Trị
vị âm bị tổn thương, miệng khô, yết hầu táo lưỡi đỏ ít có rêu, mạch không xác.
Hoàng
tinh không những dùng chữa tỳ vị âm hư, mà còn bổ khí, dùng chữa tỳ vị khí hư,
làm cho thân thể mỏi mệt, không có lực, không muốn ăn uống, mạch hư mà vồ lực.
Thường dùng hoàng tinh cùng hoàng kỳ, đẳng sâm, sơn dược.
2 - Ngọc
trúc chủ âm hư ngoại cảm
Hoàng
tinh chủ tinh huyết khuy hư
Ngọc
trúc dưỡng âm thanh nhiệt, thường dùng chữa âm hư ngoại cảm, phát nhiệt, miệng
ráo, cổ họng đau, ho, thấu. Như "Trọng đính thông tục thương hàn luận"
Gia giảm tàng nhuy thang thang (tàng
nhuy, thông bạch, cát cánh, bạc hà, bạch vi, đâu thị, cam thảo, đại táo) trị chứng
vốn thân thể đo âm hư cảm mạo phong ôn, váng đầu, tnỉnh sốt nóng, hơi sợ lạnh,
có mồ hôi, hoặc không có mồ hôi, lưỡi đỏ, mạch xác.
Hoàng
tình điền tinh (tức là sinh tinh) dưỡng huyết dùng cho các chứng: tinh huyết
khuy hư, mặt vàng, mình gầy, ăn uống kém đi, môi sắc nhợt nhạt, lưỡi có
rêu trắng, mạch hư. Như "toàn quốc trung dược thầnh phương sứ
phương tập" Hoàng tinh đan (đương quy, hoàng tinh)
3 - Ngọc
trúc chủ phế vị táo nhiệt
Hoàng
tinh chủ phế lao khái huyết.
Ngọc
trúc dưỡng âm, thanh nhiệt. Dùng chữa phế vị táo nhiệt gây ra cổ họng khô, miệng
khát phiền khát tiêu cốc, ăn nhiều, dễ đói.
Lưỡi
khô, ít tân dịch.
Như
“Ôn bệnh điều biện” thu táo thương vị âm. Ngọc trúc mạch đông thang chủ trị bệnh
này (ngọc trúc, môn đông, sa sâm, sinh cam thảo)
Hoàng
tinh bổ khí, nhuận phế. Dùng chữa phế lao khái huyết.
Như
“Mân đông bản thảo” trị phế lao, khái huyết, dùng hoàng tinh căn đầu, băng đường,
hòa nước giếng uống ngay.
Đặc
thù chủ trị khác nhau
Lâm
sàng báo: Trị chứng tâm lực suy kiệt, lấy ngọc trúc làm chủ. Trị liệu phong thấp
tính tâm tạng bệnh. Xem xét động mạch đang mềm hóa ra cứng thì thể biết được
tình trạng bệnh ở trong. Thế nên là tính tâm tạng bệnh dẫn khỏi đến II-III.
Tâm lực suy kiệt 5 ca. Sau khi phục dược
xem xét phân biệt từ 5-10 ngày, một tâm
suy đến khống chế.
Dụng pháp: Ngọc trúc 5 đồng, mỗi ngày 1
tễ sắc nước uống.