Công hiệu khác nhau
Hợp hoan hoa cùng mai quế hoa đều có công dụng
lý khí, thư uất, hoạt kinh lạc. Cho nên với các bệnh khí trệ, kinh lạc bị trở
cho đến bệnh can uất đều dùng hai vị phối hợp để chữa. Nhưng hợp hoan tính có vị
ngọt, bình, vào các kinh tâm tỳ phế, thiên về khí phận, hay dưỡng tâm, hòa tỳ
an thần, giải uất; công dụng hoạt lạc thì không bằng mai quế hoa.
Mai quế hoa tính vị ngọt, hơi đắng, ôn, vào
can tỳ kinh thiên về huyết phận. Về mặt lý khí, tán ứ thì hay hơn hợp hoan hoa
– mà an thần, dưỡng tâm, hòa tỳ lại không bằng hợp hoan hoa.
Chủ trị khác
nhau
1
- Hợp hoan hoa chữa chứng ưu uất
(lo phiền) mất ngủ, dễ quên.
Mai quế hoa sở trường trị khí thống ở can, vị
Hợp hoan hoa ngọt, bình, dưỡng tâm, an thần,
giải uất hay chữa tâm tỳ lưỡng hư, tinh thần ức uất, sinh ra tâm thần không
yên, hư phiền mất ngủ, ưu uất dễ sinh giận dữ, trí nhớ giảm dần.
Như “Tứ xuyên trung dược chí” - trị tâm thận
bất giao, mất ngủ, phải dùng ngay hợp hoan hoa, quan quế, hoàng liên, dạ giao đằng,
sắc nước uống cũng cổ thế phối hợp với toan táo nhân, bá tử nhân, đan sâm, long
sỉ.
Mai quế hoa hay thư uất khí ở can đởm, trị
khí thống ở can vị.
Như "Cương mục thập dị" trị khí thống
ở can, vị dùng mai quế hoa âm can (phơi khô trong bóng dâm) đun nước dùng thay
chè.
2 - Hợp
hoan hoa trị yếu, cước đau nhức.
Mai quế hoa trị thổ huyết, nục huyết, khạc ra
huyết, đến kinh nguyệt không đều.
Hợp hoan hoa lý khí, hoạt lạc. Dùng chữa các
chứng khí trệ, lạc trở, yêu cước đau nhức.
Như "Thánh huệ phương". Bài Dạ hợp
hoan hoa trị bệnh yêu, cước đau nhưng lâu ngày không chuyển. Dùng dạ hợp hoan,
ngưu tất, hồng lan hoa, thạch diên, hạnh nhân, quế tâm, lấy mật nhào viên bằng
hột ngô to.
Mai quế hoa, hòa huyết, hành ứ. Dùng chữa
can ứ huyết ứ sinh ra thổ huyết, khạc huyết, kinh nguyệt không đều.
Như “Tử hạc đinh tập phương” bài Mai quế cao
(nhị hoa, mai quế, đường trắng) để chữa can uất thổ huyết, kinh nguyệt không đều.
“Tuyền châu bản thảo” trị bệnh phế, khái thấu,
thổ huyết, dùng tiểu quế hoa giã nhỏ vắt nước, hòa với đường uống.
3 - Hợp
hoan hoa trị mắt đỏ, yết hầu đau
Mai quế hoa chủ trị sang thũng độc,
đới hạ.
Hợp hoan hoa vào tâm, phế kinh,
nên thanh tâm, làm sáng mắt; giải uất, lợi yết. Thích ứng dùng cho các chứng
phong hỏa gây nên bệnh mắt và yết hầu đau. Như "Trị xuyên trung dược
chí" trị bệnh phong hỏa nhãn tật, dùng hợp hoan hoa phối hợp với gan gà,
gan dê, hoặc gan lợn, nấu chín lên ăn. Dùng hợp hoan hoa đun sôi với rượu uống,
trị chứng đau mắt mờ không trông rõ, cứ thế phốỉ hợp với cát cánh, mạch đông,
ngân hoa để chữa yết hầu đau.
Mai quế hoa tán ứ, hòa huyết. Dùng chữa các
chứng huyết, khí ủng, ứ gây nên các bệnh phù thũng.
Như "Cương mục thập dị" trị nhũ
ung. Dùng mai quế hoa, mẫu đinh hương, lấy rượu uống với thuốc.
“Bách thảo kính” trị chứng thũng độc mới
phát.
Dùng mai quế hoa bỏ tâm, rễ, bồi khô, tán nhỏ,
ung rượu ngon uống thuốc.
Đặc thù sử dụng
khác nhau.
“Y thuần tích nghĩa” - Bài Hậu tân thang chữa
đởm chướng sườn dưới đau, chướng, miệng đắng, thở gấp. Dùng sài hồ, trần bì,
chi tử, chỉ xác, uất kim, đương quy, phục linh hợp hoan hoa, tất lê, phật thủ,
sắc nước uống.
"Bách thảo kính" trị bệnh phong tỳ
mới phát, hoặc phát đã lâu. Dùng mai quế hoa 3 đồng, hồng hoa, toàn đương quy mỗi
mỗi vị 1 đồng, cho vào nước nấu, bỏ bã, dùng rượu ngon uống thuốc, uống bẩy lần.
"Toàn chưu một bản" trị bệnh can
phong đầu nhức. Dùng mai quế hoa từ 4 đến 5 đoá, hợp với tâm đậu hoa 3-4 đồng,
đun nước sôi uống thay chè.