Lộc nhung cùng Tử hà sa


Công hiệu khác nhau

    Lộc nhung cùng tử hà sa đều là những vị thuốc đại bổ, đều bổ thận dương, ích tinh huyết, mà là thuốc chủ yếu chữa các chứng thận dương bất túc, tinh huyết khuy hư.
   Lộc nhung tuấn bổ thận dương, tráng Đốc mạch, cường cân cốt, công dụng tại can, thận.
   Tử hà sa, tính ôn, không táo, nhu hoãn, bình, hòa. Bổ dương thì công dụng không bằng lộc nhung, nhưng lại ích khí, bổ khí huyết âm dương được lâu dài, công dụng tại phế, can, thận.


Chủ trị khác nhau

1  -     Lộc nhung chủ thận dương bất túc, dương nuy, di tinh, tử cung lạnh không thụ thai.  Tử hà sa chủ khí huyết khuy hư, sác mặt vàng.

    Lộc nhung tuấn bổ thận dương, ích tinh, dưỡng huyết. Cho nên chủ thận dương bất túc, hạ nguyên hư lãnh, là nguyên nhân của các chứng bệnh dương nuy, di tinh, tử cung lạnh không thụ thai dược.
   Như "Thánh huệ phương” Lộc nhung hoàn (lộc nhung, ngưu tất, mạch môn đông, nhục thung dung, thạch hộc, phúc bồn tử, tỳ giải, quế tâm, phục linh, bào phụ tử, nhân sâm, hoàng kỳ, chung nhã phấn, thục địa hoàng, phòng phong), trị hư lao thương bị, cốt khí bất túc, tinh thanh mà ít, âm nuy cước, tất vô lực.
  Nếu chữa tử cung lạnh không thụ thai được, thường phối hợp với tử thạch anh, nhục thung dung, đỗ trọng, tang ký sinh, thạc nam diệp, xuyên khung, nhân sâm, đương quy.
  Tử hà sa song bổ khí huyết, hoãn mà không táo không những chữa dương nuy, di tinh mà còn chữa huyết khí khuy hư, sác mặt vàng nhợt, môi giáp, không đỏ, thân thể thiếu lực, thường dùng đảng sâm, hoàng kỳ, đương quy, thục địa.

2  -    Lộc nhung trị băng, lậu, đới hạ.
 Tử hà sa trị phế hư, ho, suyễn, khạc huyết.

  Lộc nhung bổ ích can thận, điều lý xung nhâm cho nên chủ can thận bất túc, xung nhâm bất cố nên sinh băng, lậu, đới hạ.
  Như "Chứng trị chuẩn thằng” Lộc nhung tán (lộc nhung, long cốt, miết giáp, thục địa hoàng, trích ô tậc cốt, tục đoạn, nhục thung dung).
 Trị băng trung, lậu hạ không khỏi, hư tổn doanh sấu.
 "Tế sinh phương" Bạch băng hoàn (hộc nhung, bạch liễm, kim mao cẩu tích) trị nữ thất xung nhâm hư hàn, khí hư trắng.
 Tử hà sa không những trị băng lậu, đới hạ, mà còn tư bổ phế thận, dưỡng âm ích khí.
 Lại chủ trị hư lao, suyễn ho, thường cùng nhân sâm cáp giới, mạch đông, thiên đông, thục địa.

3  -    Lộc nhung chủ yếu, tất lãnh thống, cốt nhuyên hành trị tinh thần mệt mỏi, huyễn vựng.  Tử hà sa hay dùng chữa cốt chứng, lao nhiệt.

   Lộc nhung tuấn bổ nguyên dương, trung đốc mạch, ích tinh huyết, kiên cân cốt, cho nên chủ trị can thận bất túc, cân cốt nuy nhuyễn, tiểu nhi chậm biết đi răng chậm mọc.
 Nhu Y tông kim giám - gia vị địa hoàng hoàn (Thục địa hoàng, hoài sơn dược, sơn thù nhục, mẫu đơn bì, phục linh, trạch tả, lộc nhung, ngũ gia bì, sạ hương) - Trị chi thể nhuyễn nhược, chậm đứng dậy được, chậm biết đi, răng mọc chậm, đến chóng mặt, hoa mắt, choáng váng, tinh thần mỏi mệt.
 Tử hà sa ích tinh, bổ huyết. Trị dưỡng phế thận. Chủ trị cốt chứng, lao nhiệt.
 Như “Phụ nhàn lương phương” Hà sa hoàn (hà sa, bạch phục linh, nhân sâm, can hoài sơn). Trị lao sái hư tổn, cốt chứng. Cũng có thể phối với sơn dược, quy bản, hoàng há, đỗ trọng, thiên đông, mạch đông, thục địa hoàng - Như đại tạo hoàn.

4  -    Lộc nhung chủ âm thư không liễm. Tư hà chủ trị ít sữa.

  Lộc nhung bổ dương, ôn bổ nội thác - Dùng chữa mụn nhọt vỡ lâu ngày không thu được miệng, âm thu bị hãm không khỏi lên được, thường dùng cùng thục địa, bạch giới tử, ma hoàng, khung thán, nhục quế.
Tử hà sa ích khí, bổ âm, dùng cho sản hậu khí huyết khuy hư, thiếu sữa.
Như “Cát lâm trung thảo dược” chữa chứng sữa không đủ. Dùng tử hà sa một cái, bỏ màng, rửa sạch, hơ lửa sao tiêu, nghiền nhỏ, mỗi buổi sáng, sau khi ăn cơm uống từ 5 phân đến l đồng.

Đặc thù sử trí khác nhau

Lâm sàng báo: Lộc nhung trị liệu huyết dịch bệnh.
Lấy lộc nhung trong tủy - Dùng rượu trắng ngâm cho tan.
Chế thành 20% - lộc nhung huyết tửu - Hoặc lấy máu ở tĩnh mạch cổ con hươu cho vào rượu, chế thành 30% - chính là lộc huyết tửu - một tư l0gr, mỗi ngày 3 lần. Đã thử nghiệm trị huyết Tiểu bản giảm ít 21 ca, 11 ca ở lâm sàng, trạng thái rõ ràng cải thiện, huyết tiểu. Bạch tế bào giảm ít 15 ca - 7 ca được cải thiện, lại sinh trưng ngại bần huyết 6 ca trạng thái không giống nhau, không đúng trình độ ci thiện.
"Y học tâm ngộ" Hà sa hoàn (tử hà sa một cỡ, phục linh, phục thần, viễn chí đều 1 lạng, nhân sâm hoàn, mỗi lần dùng 3 đồng, mỗi buổi sáng, dùng nước giếng uống. Sau khi bệnh khỏi, cần phài làm cho đoạn căn.
"Bản thảo cương mục" Trị điên lâu, mất trí, khí hư, huyết nhược. Lấy tử hà sa rửa sạch đun nhà mà ăn.