Công
hiệu khác nhau
Nguyên hoa và khiên ngưu (bìm bìm) đều đắng, hàn, có
độc, đều có công dụng trục thủy, tiêu đàm. Nhưng nguyên hoa khinh dương, tả thủy
lực rất mạnh, sở trường trục nước tụ ở bụng và sườn, kiểu chữa bệnh ghẻ lở và bệnh
da vàng.
Khiên ngưu tử (hột bìm bìm) chát nặng, tuy cũng rút
được nước nhưng lực so với nguyên hoa thì kém vả lại nó hạ khi, tả úng trệ ở
tam tiêu kiêm sát trùng khứ tích.
Chủ trị khác nhau
1. Nguyên
hoa chữa ho xuyễn
Khiêu
ngưu chữa thực úng, tiện bí
Nguyên hoa chuyên trục thủy ở bụng và sườn, chữa ho
suyễn. Như Trọng cảnh dùng Thập táo thang gồm có nguyên hoa, cam toại, đại kích
trị được bệnh huyền ẩm mà nhức đầu dưới tim bĩ cứng đầy, dẫn đến dưới sườn cũng
đau nhói, nôn khan, đoản khí.
"Bổ khuyết trửu hậu phương" có tài trị
khái thấu. Dùng nguyên hoa đổ nước vào nấu rồi bỏ bã, cho 14 qủa táo đun tiếp để
nguội, ăn táo, 2 ngày thì khỏi bệnh.
Khiên ngưu hạ khí trục thủy, thông tam tiêu úng kết.
Dùng chữa khí trệ ở tam tiêu, vì thấp nhiệt, thực ủng gây nên tiện bí có thể
dùng một vị khiên ngưu, hoặc có thể dùng phối hợp với thuốc khác cũng được.
Trong bài Giản yếu phương đơn có dùng khiên ngưu tán nhỏ dùng gừng làm thang uống
để chữa đại tiện không thông.
"Bản thảo diễn nghĩa" chữa bệnh đại tràng
bị phong bí ủng, nhiệt kết sát, dùng hắc khiên ngưu, đào nhân lấy mật làm hoàn
to bằng hột ngô, dùng nước ấm mà uống.
2. Nguyên
hoa trị hoàng đởm
Khiên ngưu trị các loại trùng
Nguyên hoa đắng, tiết, công dụng như một vị tướng khỏe
mạnh. Dùng chữa thấp nhiệt hoàng đảm, tiện bế, nước đái đỏ, đầu váng. Nguyên
hoa tính hung hăng (như kẻ cản xe để cướp lấy của) xung phong giáng hãm, hễ
đánh là trúng). Cho nên nhân khi ăn bị nghẹn, hoặc hơi ho không được dùng.
Nguyên hoa chữa bệnh cũng hay, như "Trửu hậu phương” chữa người say rượu, da
vàng, tim đau bàng hoàng lo sợ, chân, ống chân sưng phũ, tiểu tiện vàng, lậ tức
dùng nguyên hoa phối hợp với tiêu mục.
"Thánh huệ phương” có bài ngưu
đởm hoàn gồm ngưu đởm xuyên Đại hoàng, nguyên hoa, qua đế, nhiêu hoa. Trị bệnh
uống rượu vàng một bên mình da vàng.
Khiên ngưu sát trùng, dùng chữa giun có nhiều tác dụng,
giun đũa hiệu của càng nhiều. Như "Vĩnh loại phương" trị bệnh giun
tích. Đùn khiên ngưu, binh lang, sử quân tử nhục tất cả đều tán nấu mỗi lần uống
2 đồng cân dùng đường cát uống. Trẻ con giảm một nừa liều dùng.
3. Nguyên
hoa trị chữa nước có chất độc
Khiên ngưu chữa thực thủy ở tam
tiêu
Nguyên hoa chữa nước có chất độc. Như "Phổ tế
phương” có bài chỉ xác hoàn gồm chỉ xác, nguyên hoa, dấm dùng nước trắng uống,
trị giun độc sinh trưởng.
Khiên ngưu không những trị nước có chất độc. Mà còn
có tác dụng hạ khí, trục thủy ở tam tiêu, trị khí ủng trệ đầy trướng. Như
"Trịnh thị tiểu phi phương" có bài trị tiểu nhi phúc trướng, thủy khí
lưu thũng, bàng quang thực nhiều tiểu tiện sích sáp. Cần dùng ngay khiên ngưu
nghiền nhỏ 1 đồng lấy thanh bì làm thang, uống lúc đói. "Nho môn sự tẩn"
có bài vũ công tán, hắc khiên ngưu tử giã nhỏ sao hồi hương hoặc gia mộc hương
đều tán nát, lấy nước gừng làm thang uống từ 1 đến 2 đồng để chữa bệnh dương thủy,
thủy thũng, phục thủy đại tiểu tiện không thông, mạch thực. Nguyên khí chưa bị
tổn thương.
Đặc thù sử dụng khác nhau
"Trừu hậu phương”. Trị hết các bệnh ho. Dùng
nguyên hoa 1 cân nước 3 cân, đun cạn lấy 1 cân, cho 14 qủa táo lại đun khô,
ngày uống 5 quả tất khỏi bệnh.
"Tập hiệu phương” trị bênh đầu rụng hết tóc
sang lở. Dùng nguyên hoa tán nhỏ pha mỡ lợn bôi vào.
"Chứng trị chuẩn thằng" bài Ngưu hoàng đoạt
mệnh tán Bạch khiên ngưu tử dùng một nửa sao chín và một nửa đế sống (hắc khiên
ngưu, nửa chín, nửa sống) Đại hoàng, binh lang mỗi vị một lạng rồi tán mạt – trẻ
con 3 tuổi mỗi lần uống 2 đồng dùng nước tương nguội để uống. Trị tiểu nhi Mã tỳ
phong bệnh biểu hiện ở phổi sưng, ho, đầy, bụng đầy cách, rất gấp hai bên sườn
(phiến động) hạ hãm làm thành hang, hai lỗ mũi sưng to mũi sưng phiền muộn, ho,
khái khản cổ gần như câm không nói dược, đờm, nước dãi trào lên làm tắc.
"Dương thị gia tàng phương" có bài Khiên
ngưu hoàn gồm sao khiên ngưu tử 3 lạng, huyền hồ sách, sao bổ cốt chỉ, các vị 2
lạng, tán nhỏ - dùng tỏi nước nghiền vắt lấy nước làm hoàn to bằng hạt ngô. Mỗi
lần uống 30 viên, trước khi ăn, đun nước muối để uống thuốc. Trị khí lạnh lưu
trú làm cho thắt lưng đau không cúi xuống, ngửa lên được.
"Phẩm thị giao hàm" suy hà tán gồm có bạch
đinh hương, bạch cập, bạch khiên ngưu tử, mỗi vị 3 đồng tán nhỏ, tra vào mắt,
ngày 3 lần?
Bàn thảo cương mục" Ngoại sanh liễu kiều – Tố
đa tửu sắc.
Có
người trai trẻ thường đam mê thái quá tửu sắc, bệnh hạ cực trướng thống (sưng
đau) đại, tiểu tiện không thống, nằm ngồi không được, đứng khóc, rên rỉ 7 ngày
đêm. Đã dùng thuốc thông lợi không khỏi, đưa người đến vái lạy ta. Ta nghĩ rằng
bệnh này là tà nhiệt thấp ở tinh đạo, ủng trướng làm tắc đường tụy đạo (đường hầm).
Bệnh hẳn ở khoảng nhị âm, cho nên trước cản trở tiểu tiện, sau cản trở đến đại
tiện. Bệnh không phải ở đại tràng, bàng quang vậy. Bèn dùng luyện thực, hồi
hương, xuyên sơn giáp, cho bội khiên ngưu, đổ nước sắc uống. Uống một nước bớt
ngay, uống ba lần khỏi hẳn. Nên khiên ngưu có thể đạt tới hữu thận, mạnh môn hỏa,
làm tẩu tinh trụy (khai thông đường tụy bế tắc).