Công hiệu khác nhau
Nhục đậu khấu cùng Kha tử đều sáp
tràng chỉ tả các chứng cửu lỵ, cửu tả đều phải dùng đến các vị này. Nhưng nhục
đậu khấu cay, ôn, thơm, nên hay ôn trung, noăn tỳ, hạ khí hành trệ chỉ thống.
Mà kha tử chua hay thu, đắng hay tiết, nên hay dùng liễm phế chỉ khái, hạ khí
giáng hỏa lợi yết hầu.
Chủ trị khác nhau
1 - Nhục đậu khấu hay chữa được các chứng
cửu tả, cửu lỵ
Kha tử lại chủ băng lậu, đới hạ, di
tinh, niệu tần.
Nhục đậu khấu ôn trung noăn tỳ,
sáp tràng, chỉ tả nên dùng chữa hư hàn cửu tả cửu lỵ.
Như "nhân bị tục chỉ phương
luận" Cố tràng tán (cồ túc xác, sao trấn bì, bào khương, trích cam thảo,
nhục đậu khấu, mộc hương) trị lănh tả tràng hoạt, hạ ly.
"Nội khoa trích yếu" tứ
thần hoàn (nhục đậu khâu, bổ cốt chỉ, ngủ vị tử, ngô thù du) trị cửu tả, cứ đến
canh năm là đi tả.
"Chứng trị chuẩn thằng" Đậu khấu hương liên hoàn (sao hoàng liên, nhục
đậu khấu, mộc hương) trị uất lỵ, hạ lỵ, xích, bạch
Kha tử cố sáp tác dụng hơn nhục đậu
khấu không những dùng cho cửu tả, cửu lỵ mà còn trị băng lậu, đới hạ, di tinh,
niệu tần.
Như trị hư thoát bất cố, băng lậu
không cầm được sử dụng kha tử phối hợp với đội ngũ hoàng kỳ a-giao, ô mai.
“Y lâm tập yếu’ trị bạch đới, bạch
dâm nhân hư hàn, dùng kha tử, bạch truật, hoàng kỳ, đương quy, đỗ trọng, sa
sàng tử) bác ngũ vị sơn du nhục.
"Hà gian lục thư" Bí
chân hoàn (kha tử bì, xúc sa nhân, long cốt, chu sa) trị bạch dâm, tiểu tiện bất
chỉ, tinh khí bất cố mộng di tinh.
2 -
Nhục đậu khấu, ôn trung noăn tỳ, hạ khí hành trệ, chỉ thống. Dùng chữa
các chứng hư hàn quản phúc thống, trưởng, không biết đói, ẩu thổ là nên dùng.
Như "thánh tễ tổng lục" nhục đậu
khấu tán (nhục đậu khấu, sinh khương, bạch diện). Lấy nước gừng hòa vào làm thầnh
bánh. Nhục đậu khấu giã, nướng chín vàng, nghiền nhỏ. Mỗi lần dung 2 đồng, lúc
đói uống với nước cơm. Trị chứng tả ra nước quá nhiều, và nhiều lần, ruột kêu
ong óc, bụng đau.
"Thánh huệ phương’' dùng nhục
đậu khấu phối hợp nhân sâm, hậu phắc, đảo đều tán nhỏ, cho sinh khương vào với
nước cơm uống thuốc. Trị chứng hoắc loạn nôn mửa không cầm được.
Kha tả sở trường liễm phế, chỉ
khái, hạ khí giáng hỏa, lợi yết, dùng chữa ho lâu, mất tiếng.
Như “tễ sinh phương" kha tử ẩm
(kha tử, hạnh nhân, thông thảo) trị ho lâu thanh âm không xuất được nữa.
"Nghi minh phương luận"
kha tử thang (kha tử, cái cánh, cam thảo) trị mất tiếng, không nói năng được.
Đặc thù sử dụng khác nhau
Nhục đậu khấu đặc thù sử dụng đã
nói ở (thảo đậu khấu và nhục đậu khấu)
Lâm sàng báo: Kha tử chữa được chứng
phế viêm. Lấy kha tử nhục 5 đồng, qua lâu 5 đồng, bách bộ 3 đồng làm một tễ
trong một ngày. Sắc nước chia làm 2 lần uống. Tại lâm sàng đã xét nghiệm 20 ca
đa số tính bình quân từ 1 đến 3 ngày bên trong nhiệt hư; 3 đến 6 ngày từ tế bào
hạ giáng xuống chính thường - 6 đến 11 ngày chứng nội viêm hấp thu. Chưa thấy
có trường hợp không hay xuất hiện.
Kha tử chữa bạch hầu đối khuẩn. Bên
trong uống 10% kha tử sắc nước - ngày 3 4 lần; mỗi lần từ 100 - 150 gr. Cục bộ
còn dùng nước súc miệng ngày 4-5 lần. Điều trị liên tục 3 lần trở lên thì cổ họng
đều được bồi dưỡng đều âm tính.
"Thánh huệ phương" Sinh
phát thần hiệu hắc đậu cao (hắc đậu, cự thắng tử, mỗi thứ 3 hợp kha tử bì lạng.
Tán mạt lấy nước đảo đều cho vào ống tre, loạn phát tắc khẩu, dùng đường đun lấy
dầu. Trước hết lấy bồ kếp nấu gội đầu cho sạch, dùng thuốc bôi vào chỗ đau,
ngày 2 lần, trị tiểu nhi cam ở ngực, đầu phát thầnh hoa, tóc rụng không mọc, đến
bệnh bạc, thốc, sang tóc không mọc được.