Công
hiệu khác nhau
Tử thảo
và ngưu bàng tử đều hay giải độc, thấu suốt được bệnh đậu chẩn, hoạt tràng,
thông tiện. Cho nên đối với các bệnh nhiệt độc bế uất, đậu mọc không thoát hết,
đại tiện bí kết, thường hay dùng phối hợp. Nhưng tử thảo sắc tía, chất hoạt, vị
ngọt, mặn, khí hàn thiên vào huyết phận, hay thanh lấy nhiệt ở huyết phận, kiêm
lợi thấp nhiệt.
Ngưu bàng
tử chất nặng, tính vị cay, đắng, hơi hàn, thiên về khí phận, dùng để giải tà
bên ngoài, sơ tán phong nhiệt, chữa bệnh đau cổ họng. Kiêm tả nhiệt ở bên
trong, làm cho chất nhiệt độc ở bên trong cũng theo đường đó mà giải đi.
Chủ
trị khác nhau
1 - Tử
thảo chủ trị huyết nhiệt, nhiều chất độc làm cho bệnh đậu sởi không mọc lên được
Ngưu bàng
tử chủ trị phong nhiệt bên ngoài bế chặt lại không cho ban chẩn phát lên được.
Tử thảo
lương huyết giải độc, giúp ban chẩn phát xuất. Cho nên chứng huyết nhiệt, nhiều
độc làm cho ban chẩn không phát được, phải dùng nó để chữa. Như "tiểu nhi
dược chứng trực quyết" có bài tử thảo ẩm gồm tử thảo, thược dược, cam thảo,
mộc thông, thuyền thoái (xác ve) trị bệnh phát ban sắc tía, hoặc sắc không hồng
hoạt các chứng.
Ngưu
bàng tử sơ tán phong nhiệt, phong nhiệt bế ở bên ngoài, dùng nó rất đắc lực. Nó
chữa chứng ban chẩn không phát ra được. Như "y tông kim giám" - bài
tuyên độc phát biểu thang gồm Thăng ma, Cát căn, tiền hồ, cát cánh, chỉ xác,
kinh giới, phòng phong, bạc hà, mộc thông, liên kiều, ngưu bàng tử, trúc diệp,
cam thảo, trị chứng đậu chẩn mới phát, muốn phát ra mà không phát ra được, sốt
nóng, hơi sợ rét. mũi tịt, mắt, má đỏ, mạch phù xác.
2 - Tử
thảo chủ trị huyết nhiệt, xuất huyết
Ngưu
bàng tử chủ trị phong nhiệt cảm mạo
Tử thảo
thanh nhiệt, lương huyết. Chuyên dùng chữa các chứng huyết nhiệt sinh ra thổ
huyết, nục huyết, lâm huyết, xuất huyết.
Như "phương mạch chính tông" trị bệnh thổ huyết, nục huyết. Dùng
tử thảo, sinh địa, bạch quả nhục, phục linh, mạch môn đông, nấu thanh cao dùng
mật cô lại, lấy nước trắng uống.
« Chứng trị chuẩn thằng" trị chứng huyết lâm, dùng tử thảo,
liên kiều, sa tiền tử. "Tân cương trung thảo du thủ sách". Trị bệnh
thiếu máu, ngày càng ít đi, sắc máu tím và có nốt nhỏ. Phải sử dụng tử thảo,
thuyền thoái, hải phiêu tiêu, tây thảo sắc nước uống.
Ngưu
bàng tử tán phong, tiết nhiệt. Chuyên dùng cho phổi và thấu biểu, lợi cho cuống
họng. Dùng chữa bệnh phong nhiệt sinh sốt nóng, đau đầu, yết hầu dau, tê các chứng.
Như "Chứng trị chuẩn thằng" có bài Ngưu bàng tử thang gồm các vị: sao
ngưu bàng tử, huyền sâm, thăng ma, sao cát cánh, tê giác, hoàng cầm, mộc thông, cam thảo. Để trị bệnh
thiếu nhi đau yết hầu, sưng đau. « Ôn bệnh điều biện" bài ngân kiều
tán gồm kim ngân hoa, liên kiều, cát cánh, bạc hà, trúc diệp, kinh giới tuệ, đậu
thị, cam thảo, để trị ôn bệnh mới phát biểu hiện: sốt nóng, nhức đầu, hơi sợ lạnh,
ho, đau cổ họng mạch phù xác.
3 - Tử
thảo chủ trị thái độc, ghẻ lở
Ngưu
bàng tử trị bệnh ở má. phát nóng dữ dội.
Tử thảo
lương huyết, giải độc tán kết. Dùng chữa các chứng nhiệt độc thượng công (bôi
lên đầu) làm cho đầu, mặt nóng dữ dội, phát di. Như "Đông viên thí hiệu
phương" bài phổ tế tiêu độc ẩm gồm:
hoàng cầm, hoàng liên, quất hồng, huyền sâm, anh cam thảo, ngưu bàng tử, bản
chí căn. mã bột, bạch cương tằm, thăng ma, sài hồ. cát cánh; trị phong nhiệt đậu,
độc bốc lên nóng dữ dội ở mặt má đầu.
4 - Tử
thảo chủ trị ngũ thử
Ngưu bàng
chủ trị đau nhức
Tử thảo
lương huyết, giải độc, lợi ôn nhiệt, hay trị ngũ thử.
Như
"bản thảo thiết yếu" trị chứng ngũ thử nhiệt hoàng, phải tử thảo,
nhân trần. Ngưu bàng tử tả nhiệt, giải độc, tán kết, tiêu thũng. Dùng chữa các
chứng nhiệt độc uất kết gây thành các bệnh sang nhọt, thũng độc. Như
"Dương liệu tâm đắc tập" - Bài ngưu bàng giải cơ thang (gồm ngưu bàng
tử, bạc hà, kinh giới, liên kiều, sơn chi, đan bì. thạch hộc, huyền sâm, hạ khô
thảo, đễ chữa các chứng: đầu, mặt sau gáy bị độc đau.
« Y tông kim giám" gồm qua lâu nhân,
ngưu bàng từ, hoa phấn, hoàng cầm, trần bì, sinh chi tử, liên kiều, tọa giác
thích, kim ngân hoa, sinh cam thảo, thanh bì, sài hồ. Trị bệnh đau vú mới phát
, khi nóng khi lạnh (hàn nhiệt vãng lai).
Đặc thù sử dụng khác nhau
"Bản
thảo cương mục » tủ thảo điều – Dẫn sản bào, trị sản hậu lâm lịch. Dùng tử
thảo một lạng tán nhỏ trước mỗi bữa ăn dùng nước uống thuốc hai đồng cân.
« Ngoại liệu chứng trị toàn thư" - Tử quy đu - Tử thảo, đương
quy. các vị đều nhau. Dầu vừng đun nóng bỏ bã; lấy bông tẩm thuốc bôi vào, dần
dần sẽ nhuận lại. Trị bệnh trên môi mọc mụn trắng dần dần lớn lên như cái kén tằm.
hoặc ỏ dưới môi sưng như quả táu đen. táo liệt rất đau nhức.
"Dương Y đại toàn” bài tử nhung cao gồm tử thảo, bạch chỉ. mỗi thứ
2 đồng, cam thảo 1 đồng, dầu vừng 2 lạng. Những vị này cùng cho vào đun đến khi
nào thấy Bạch chỉ vàng là được, lọc lấy nước trong, rồi cho thêm bạch sà, khinh
phấn, mỗi thứ hai tiền, rồi lấy cao đó đổ vào chân đau để chữa bệnh ”my phong
tiển"
"Thánh huệ phựơng” trị chứng trẻ con rụng hết tóc (đầu trọc) Dùng tử
thảo nấu lấy nước bôi vào.
Lâm sàng
báo kinh nghiệm: Ngưu bàng tử dự phòng sẵn để chữa bệnh “sốt phát ban".
Dùng ngưu bàng tử sao nghiền thành phấn dùng dây bột, dây kỹ rồi tích trữ để sẵn
sàng dùng khi cần đến.
Trẻ từ 1
đến 9 tuổi, mỗi lần dùng một khắc rưỡi
Từ 15 tuổi
dùng hai khắc; Trên 15 tuổi trở lên dùng 3 khắc
Mỗi
ngày ba lần điều trị, cứ sau bữa ăn, lấy nước trắng pha thuốc uống. Mỗi kỳ điều
trị là 2 ngày liền.
Dự phòng
như vậy đã có kết quả rất tốt.
"Thánh huệ phương” trị bệnh thân thể phù thũng, muốn liệt. Dùng thủ
niêm tử gạo nếp sao nghiền nhỏ, dùng nước uống mỗi lần 2 tiền. Ngày uống ba lần.